Vô Đối Môn
“Vô đối môn” được những người tu học nhận xét là một cuốn sách giúp họ tìm được sự thảnh thơi, lợi lạc ngay trong chính cuộc sống của mình.

VÔ ĐỐI MÔN tiếp tục nhận được sự quan tâm của báo đài gần xa. Xin gửi tới các bạn bài phỏng vấn của báo Dân Việt.
Cuối tháng 7/2019, tác phẩm Phật giáo “Vô đối môn” của tác giả Lý Tứ ra mắt tại TP.HCM và thu hút hàng trăm Phật tử cả nước về dự buổi ra mắt. “Vô đối môn” được những người tu học nhận xét là một cuốn sách giúp họ tìm được sự thảnh thơi, lợi lạc ngay trong chính cuộc sống của mình. Đó là lý do hàng trăm Phật tử đã về Sài Gòn để kịp tham dự buổi ra mắt của tác giả Lý Tứ – người đã bỏ ra 30 năm nghiên cứu về Phật đạo.
Tác giả Lý Tứ sinh năm 1954, là cán bộ Đại học An Giang đã về hưu. Ông được nhiều Phật tử gọi bằng sự cung kính và thân mật: Thầy Tứ. Sách do HanoiBooks và Nhà xuất bản Dân trí ấn hành.
Danviet.vn có cuộc trò chuyện với tác giả Lý Tứ về nhân duyên của tác phẩm “Vô đối môn” vừa xuất bản.
Tác phẩm vô đối môn được trình bày theo hình thức hỏi đáp. Xin hỏi cư sĩ, tại sao ông lại giấu tên người hỏi? Người hỏi có thật không? Việc sắp xếp hàng trăm câu hỏi xoay quanh chủ đề Phật đạo trong ‘Vô đối môn’ liệu đã đủ kiến thức cho Phật tử muốn tìm hiểu sâu về Phật đạo?
– Năm 2015, có hai vị khách trẻ là vợ chồng đều là bác sĩ, đi cùng một người học trò đến thăm tôi. Trong lúc nói chuyện, hai vị khách có hỏi tôi một số câu hỏi về Phật pháp, mình trả lời cụ thể từng câu, và hai vị khách rất hài lòng với những gì mình đã trình bày (đó là những câu hỏi nằm ở phần đầu cuốn “Vô đối môn”).
Sau khi hai vị khách ra về, tôi suy nghĩ, tại sao ta không ghi lại những câu hỏi và trả lời về Phật pháp mà mình đã trao đổi với mọi người trong thời gian qua thành một cuốn sách. Nhân duyên “Vô đối môn” ra đời trong hoàn cảnh như thế.
Về việc tại sao không có tên người hỏi, tôi xin trả lời như sau: Các câu hỏi được nêu lên trong sách, không phải xảy ra một lúc, mà nó gồm những mẩu chuyện trải dài trên 20 năm, đến nay có những vị đã qua đời. Sau này khi viết lại, tôi cũng không tiện đến gặp họ để xin phép được nêu tên người hỏi trong sách, vì thế cách tốt nhất là chỉ viết lại câu hỏi và câu trả lời, coi như một đương cơ làm sáng tỏ những khúc mắt trong lòng người tìm hiểu Phật pháp hơn là ai hỏi! Các câu hỏi và trả lời là hoàn toàn có thật!
Hàng trăm câu hỏi xoay quanh chủ đề Phật đạo trong “Vô đối môn” liệu đã đủ kiến thức cho Phật tử muốn tìm hiểu sâu về Phật đạo chưa, thưa ông?
– Như mọi người đều biết, Phật đạo như biển lớn, các câu hỏi và trả lời trong “Vô đối môn” chỉ là những giọt nước nhỏ nhoi trong biển lớn ấy, nên bảo rằng các câu hỏi đó đã đủ kiến thức giúp một Phật tử hiểu sâu về Phật đạo là không thoả đáng. Nhưng có thể nói, các câu hỏi và trả lời trong “Vô đối môn”được sắp xếp từ dễ đến khó, từ cạn đến sâu…, được coi là những gì cơ bản nhất, giúp người tìm hiểu Phật pháp có thể hiểu rõ và định hướng cho bản thân các bước đi cần thiết trong từng giai đoạn tu tập!
Một cuốn sách ra đời sẽ gây nhiều tranh cãi. Với “Vô đối môn”là cái tên sách: Cửa Vô đối và thông điệp của cuốn sách: Cửa lớn mở tâm trí. Với 30 năm nghiên cứu Phật đạo, điều gì ông muốn gửi gắm trong lần xuất bản tác phẩm Phật đạo đầu tiên này?
– Không riêng gì cuốn “Vô đối môn”, mà theo tôi, bất kì một sản nào ra đời, việc tranh cãi, đánh giá về sản phẩm ấy là chuyện tự nhiên. Với tôi, “Vô đối môn” cũng chỉ là một sản phẩm, và sản phẩm này tốt hay xấu, có ích hay không… xã hội và người đọc là những vị Thầy thông tuệ, nghiêm khắc, công tâm nhất. Vì thế mọi đánh giá, phán xét về “Vô đối môn” sẽ được kết luận sau cùng bởi độc giả.
Khi viết “Vô đối môn”, tôi chỉ có một tâm niệm, những ai có nhân duyên đọc Vô đối môn, hi vọng sẽ tìm thấy trong đó một chút lợi ích thiết thực từ cuốn sách, trong quá trình tìm hiểu Phật pháp.
Với mục tiêu cho người học đạo là Giác ngộ – Giải thoát – Trí tuệ…, ông có sợ mục tiêu này của mình cao siêu quá không dù ông đã bỏ ra 30 năm nghiên cứu? Ông có thể giải thích cho độc giả hiểu thấu chân lý: Giác ngộ – Giải thoát – Trí tuệ?
– Giác ngộ, Giải thoát và Trí tuệ là ba mục tiêu của Phật đạo, chứ không phải của tôi tự đề ra, cho nên Phật đạo còn có tên là Đạo Giác Ngộ, Đạo Giải Thoát và Đạo Trí Tuệ!
Mục tiêu này có cao siêu quá hay không? Xin thưa, không riêng gì Phật đạo, mà bất kì nền giáo dục nào cũng có những mục tiêu của nó, và bổn phận của giáo dục là bằng mọi cách giúp người học hoàn thành các mục tiêu đã đề ra. Theo tôi, việc hoàn thành mục tiêu của giáo dục đề ra không liên hệ đến chuyện cao siêu hay tầm thường, mà nó là kết quả tất yếu của quá trình dạy và học.
Về ba phương châm Giác ngộ – Giải thoát – Trí tuệ, tôi xin tóm tắt ý nghĩa của như sau: Giác ngộ, là thấy biết và thấu suốt điều mình đang học, đang hướng đến; Giải thoát là không còn bị ràng buộc bởi những quan niệm (các pháp) hư vọng từ thân tâm đến thế giới; Trí tuệ là biết cách giúp mình và người thành tựu rốt ráo hai phương châm Giác ngộ và Giải thoát.
Tâm và Pháp là 2 vấn đề ông nhấn mạnh trong cuốn sách. Nếu có thể nói ngắn gọn hơn cho một người học đạo Phật thấu hiểu để vận dụng vào thực tế cuộc sống, ông sẽ tóm tắt 2 ý trên như thế nào?
– Phật đạo đề ra 4 nơi chốn mà người tu hành phải giải quyết tận gốc nếu muốn được an vui, đó là Tứ niệm xứ, gồm: Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ và Pháp niệm xứ.
Trong “Vô đối môn”, tôi chỉ đề cập nhiều đến Tâm niệm xứ và Pháp niệm xứ mà ít đề cập đến hai niệm xứ còn lại, vì trong các mẩu đối thoại mà tôi đã trao đổi, toàn bộ là cư sĩ, phần lớn họ chỉ đề cập đến những khúc mắc trong phạm vi của tâm và pháp, cho nên người đọc chỉ thấy Vô đối môn nói nhiều đến tâm và pháp là lý do như vậy.
Về tâm và pháp tôi xin sơ lược: Chữ Tâm trong Phật đạo nhằm chỉ ra một hiệu ứng mê lầm, khi các giác quan xúc đối với trần cảnh rồi chấp chặt, mê mờ và sinh các quan niệm hư dối từ nơi trần cảnh ấy, để rồi cuối cùng một hiệu ứng tình cảm khởi lên. Ví dụ: Một bức tranh tự thân nó không có ý nghĩa đẹp xấu, nhưng khi ta tiếp cận bức tranh, tuỳ vào góc nhìn, tuỳ vào quan điểm, tình cảm…, ta sẽ thấy bức tranh đó đẹp hay xấu (theo quan điểm riêng của ta).
Nếu ta mê mờ, chấp chặt quan điểm này, trong lòng sẽ sinh các hiệu ứng tình cảm như thương hay ghét bức tranh, thương thì khởi tâm tham (muốn có được), chán ghét thì sẽ sân hận (muốn xa lánh), những hiệu ứng như vậy Phật đạo gọi là tâm hay phàm tâm.
Pháp là đối tượng của ý căn, nó là những nhận thức, quan niệm, khái niệm, quan điểm… Phật đạo chỉ ra rằng, các pháp hay nhận thức, quan niệm, khái niệm như thế không có chân lý, chỉ đúng với nơi này, người này, văn hoá này, không đúng với nơi khác, người khác, văn hoá khác. Vì thế một pháp tự nó không có những tính chất nhất định, không bền chắc vì không đại diện cho chân lí, Phật đạo gọi là không tánh. Nếu ta mê say các quan niệm ấy, sẽ bị các quan niệm ấy trói buộc, làm cho u tối và phát sinh phiền não cũng như các thứ kiết sử là tham, sân…
Về ứng dụng, nếu trong cuộc sống, ta tỉnh táo trước mọi cảnh duyên, không mê mờ để cho tâm và pháp hư vọng chế ngự hay làm chủ bản thân, nhất định trước mọi hoàn cảnh ta không động lay hay bị cám dỗ bởi bất kì việc gì. Từ đó, đời sống sẽ an vui.
Một khi không bị cảnh duyên làm vướng bận trong lòng, không phân tâm bởi những tác động bên ngoài, người ta mới có thể toàn tâm toàn ý cho công việc, lao động hay học tập, nhờ đó sẽ cho ra hiệu quả cao.
Văn – Tư – Tu là điều kiện cần và đủ để nuôi dưỡng con đường của một người tu hành. Không một bậc thầy cao siêu nào có thể dạy được học trò nếu học trò không chịu trải qua con đường rèn luyện trên. Xin ông cho hỏi, Văn – Tư – Tu trong giáo lý ông dạy học trò có khác Phật tử tu học từ các tăng ni trên chùa không?
– Bản thân là một Phật tử, thấm nhuần lời dạy của Phật: “Thấy Tăng như thấy Phật”, do đó việc làm, việc dạy, và học của tăng, ni, Phật tử như thế nào, mình không được phép can dự và cũng không được quyền có ý kiến (khi chưa nhận được yêu cầu từ các vị tôn túc). Vì thế, tôi chỉ xin phép trả lời những gì có liên hệ đến mình và bạn bè cùng tu học với nhau.
Theo tôi, Văn: Tiếp nhận kiến thức; Tư: Suy nghĩ thấu đáo kiến thức đã tiếp nhận; Tu: Ứng dụng triệt để những nghĩa lý đã thấu đáo vào thực tiễn cuộc sống.
Ví dụ: Phật dạy “Tham là giềng mối của khổ, phiền não”. Nghe được lời dạy này gọi là Văn. Nghe xong, suy nghĩ thấu đáo ý nghĩa: Vì sao tham là giềng mối của khổ phiền não, vì sao tham lại hiện hữu trong ta, hiện hữu bằng cách gì, làm sao để nó tịch diệt vĩnh viễn… Suy nghĩ như thế gọi là Tư (tức tư duy quan sát, thuật ngữ hay dùng là Thiền tư). Suy nghĩ thấu đáo rồi, ứng dụng triệt để hiểu biết này vào đời sống, đến khi nào tham không còn hiện khởi trong ta gọi là Tu.
Học trò ông rất nhiều tầng lớp, người già nhất năm nay đã 102 tuổi, người trẻ nhất vẫn đang là sinh viên. Người là nông dân, kỹ sư, cán bộ, kinh doanh… nhưng đều theo học ông như một con đường giúp họ thấu hiểu rõ hơn chân lý nhà Phật. Ông có điều gì căn dặn học trò khi học pháp của mình không?
– Tôi có bốn phương châm học tập và hành xử thường căn dặn bạn bè của mình: Phải xây dựng thái độ học tập; Phải siêng năng, nỗ lực học tập; Phải nắm vững phương pháp học tập, và thấu đáo những điều mình đã học; Phải biết mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất.
Lời nói đầu ông viết về hình ảnh tráng sĩ là thái tử Tất Đạt Đa trên con đường đi tìm con đường giác ngộ. Ông muốn gửi gắm điều gì trong khúc tráng ca đầy cảm xúc ấy?
– Bài “Tráng Ca” tôi viết với một cảm xúc đặc biệt khi gặp phải một sự việc khó giải quyết, tôi có ghi lại hoàn cảnh ra đời của bài ca ấy trong Chuyên mục Chuyện Bên Lề số 09, được đăng trong Fanpage Lý Tứ.
Khi đưa Bài Tráng Ca Bất Tử vào “Vô đối môn”, tôi muốn gửi gắm đến bản thân và bạn đọc, khi gặp một chuyện khó xử trên đời, hình ảnh đi tìm con đường giác ngộ của thái tử Tất Đạt Đa sẽ cho ta một giải pháp tốt nhất, đó là không giải quyết sự việc theo hướng cực đoan… Vì rằng, giải quyết cực đoan sẽ là con đường đưa mọi thứ đến bế tắc và rời xa chân lý.
Xin cám ơn ông!
Thảo Nguyên (thực hiện)