Một Năm Bằng Một Trăm Năm
Một năm qua, Diệu Tâm đã không ngừng học tập, trải qua bao lần thay đổi nhận thức, trải qua bao lần thay đổi nhãn lực, trải qua bao lần thay đổi tâm cảnh giới..v..v...

Tâm sự huynh đệ số 26
Các bạn !!!
Lý Diệu Tâm là một trong những HĐ trẻ của Lý Gia, thuộc thế hệ 8X, nhập môn trở thành HĐ Lý Gia chỉ mới trên dưới một năm !!!
Vì là người thuộc thế hệ 8X, nên Lý Diệu Tâm cũng bận rộn như bao bạn trẻ khác, từ chuyện gia đình, chuyện cơ quan, chuyện xã hội...v..v...Nhưng, trong vô vàn bận rộn ấy, Lý Diệu Tâm đã biết thu xếp thời gian để làm thế nào “đời và đạo” đều có thể chu toàn !!!
Một năm qua, bạn ấy đã không ngừng học tập, trải qua bao lần thay đổi nhận thức, trải qua bao lần thay đổi nhãn lực, trải qua bao lần thay đổi tâm cảnh giới..v..v... Để đến hôm này, Lý Diệu Tâm có thể tiếp bước những Sư Tỷ của mình như Lý Tường Vi, Lý Phương Anh, Lý Hoàng Nhi...v..v...dắt dìu, giúp đở những người đi sau tìm đến con đường giác ngộ !!!
Đọc bài viết của Lý Diệu Tâm dưới đây, nếu tinh ý, các bạn dễ dàng nhận ra trong bảy cảnh giới đệ nhất nghĩa của Phật đạo là: Tâm cảnh giới, tuệ cảnh giới, kiến cảnh giới, trí cảnh giới, siêu nhị kiến cảnh giới, siêu tử địa cảnh giới, Như Lai tự đáo cảnh giới...bạn ấy đã thành tựu đến đâu trong thời gian kỉ lục !!! Như vậy, ta có thể thấy, nếu tu hành đúng chánh pháp, bạn có thể rút ngắn thời gian của 100 năm (hoặc lâu xa hơn nữa) chỉ còn 01 năm !!!
Xin chúc mừng những thấy biết mới của LÝ DIỆU TÂM !!! Chúc SM an vui, tinh tấn !!!
14/07/2020
LÝ TỨ
Thưa thầy,
Hôm qua con đọc lại bài viết “Tản mạn về sợi dây và con chó” trên trang lytu.vn. Rất tình cờ là 3 câu hỏi thầy đưa ra ở cuối bài cũng là những vấn đề mà gần đây con thường suy nghĩ đến.
Con xin phép được trình bày những tri kiến của con về những câu hỏi này:
1. Cái gì đã làm cho một hữu tình không thể rời bỏ ba cõi???
Theo con, nói một cách chung chung thì khi một hữu tình sinh tâm (hay nói chính xác là hư vọng tâm) thì hữu tình đó đang trôi lăn trong 3 cõi.
Nhưng nói cụ thể hơn thì chính là CÁI NGÃ của một hữu tình đã khiến cho họ không thể thoát khỏi luân hồi của ba cõi.
Bởi một hữu tình lầm nhận rằng dục giới, sắc giới và vô sắc giới chính là họ, là của họ nên họ ôm khư khư mà nhất định không chịu rời khỏi 3 cõi, để rồi trở thành “thành viên trung kiên của 3 cõi”.
Chính vì tri kiến này nên khi tiếp xúc với một hữu tình chưa có sự giác ngộ, thầy thường nhắc chúng con là tránh chạm vào “cái ngã” của họ. Bởi vì khi bị động đến những gì mà họ cho rằng là chính họ, hoặc họ đang sở hữu thì dễ khiến cho người này phản ứng quyết liệt, bảo vệ cái ngã của mình.
Vì thế, trong quá trình tiếp xúc với mọi người, con luôn tự hỏi bản thân: “Điều gì khiến cho họ có thể bỏ cả cái thể diện mang nặng ngã mạn để ngồi đây nói chuyện với mình, chia sẻ với mình những khó khăn của họ?”! Và con phát hiện ra chính chỗ nhức nhối đó là nơi “ngã mạn”, ngã mạn là điểm suy yếu nhất, là tử huyệt để mình có thể khai thác, nắm bắt tâm ý của họ.
Như trong Tâm Pháp thầy viết: Lấy khổ đau làm vốn để mua lấy một chút đạo lý. “Món hàng đạo lý này” phải khéo mời, khéo bày để vừa đủ với “chỗ vốn mà hữu tình đó có”, vừa hợp với “ngành hàng mà hữu tình đó định đầu tư”.
2. Mặc dù hữu tình đó đã được người trí dùng mọi cách dẫn dụ để nó thoát ra khỏi nơi đã cột trói, thậm chí dẫn đi rất xa, nhưng rồi loay hoay, thế nào hữu tình này cũng có mặt trong ba cõi ???
Theo con, lý do hữu tình đó bị trở lại nơi ba cõi là do NIỆM MÊ chưa dứt. Giống như một người ngủ mê ban đêm, giật mình tỉnh giấc để ... đi uống nước (tạm giác một chút mê), xong rồi quay lại giường và... mê tiếp.
Muốn thoát khỏi niệm mê này, chẳng có cách nào khác là người đó phải dùng “trí” để thắng cơn mê. Cơn mê đó chính là mê những thấy nghe bên ngoài, mê những suy tưởng bên trong. Kinh căn tu tập Phật dạy rằng ngay khi “khả ý, bất khả ý, khả ý bất khả ý” khởi lên thì hữu tình phải tuệ tri đó là “hữu vi” và “xả”.
3. Và ba cõi đích thực là cái gì ???
Theo con ba cõi thực chất là Niệm PHÂN BIỆT. Vì có phân biệt mà sinh pháp, vì mê pháp mà sinh tâm, vì sinh tâm mà trôi lăn mãi không rời 3 cõi.
Một khi hữu tình giác ngộ “tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, tâm pháp không hai” thì người đó biết cách làm thế nào để chứng vô sinh pháp, vô sinh tâm. Khi chứng được hai vô sanh rồi, mới thật biết rằng các pháp cũng chỉ là mộng huyễn. Tâm tịnh như hư không, đến một cõi còn không hiện, huống chi 3 cõi.
Thưa thầy,
Thời gian này con tư duy nhiều về những trích dẫn của thầy trong các bài giảng. Từ khi giác ngộ, con thấy con đường đạo thực sự là con đường học trí tuệ của Bồ Tát, con phát hiện góc nhìn của mình được mở rộng ra, tu tập trong Phật đạo không đơn thuần chỉ là vấn đề giải quyết tự thân.
Qua những gì con đọc được, con nhận thấy rằng các pháp tự bản thân cũng biến hoá vô thường, không có khởi đầu cũng không có kết thúc, không có cơ sở cũng chẳng có logic. Mà cái cơ sở và logic của Pháp là ở bệnh của chúng sanh. Như thầy hay nói là “tuỳ bệnh cho thuốc”.
Xét đến tận cùng thì các pháp cũng như mộng như huyễn, vì chúng sinh mê mà Phật phải hoá hiện ra các pháp, giống như vì người bệnh mà các lương y phải bào chế thuốc thang.
Một khi thấy được Pháp chẳng còn, Tâm không sanh thì cũng chẳng còn gì mà “thấy”, như trong Kinh có nói là: “Tâm chỉ là danh tự”.
Suy nghĩ về điều này, con liên tưởng đến Phật pháp như lá thuốc trên rừng, mà Phật là vị lương y biết cách sử dụng để chữa trị cho thế gian. Đã là lá trên rừng thì ai biết nguồn gốc, ai biết nơi bắt nguồn là từ đâu. Điều quan trọng là phải biết cách “nhận diện” lá nào có công dụng ra sao, có tác dụng cho bệnh gì? Nghĩ đến đây con lại càng hiểu thêm 2 từ “trí tuệ” của đạo Phật. Trí tuệ chính là sứ mệnh lưu giữ “hạt giống của lá thuốc”, lưu truyền cách nhận diện cây thuốc, tác dụng từng loại thuốc, tuỳ thời sử dụng cho phù hợp.
Nhìn một cách tổng thể là như vậy, nhưng khi giải quyết vấn đề của mỗi hữu tình thì người làm công hạnh lại phải có cái nhìn chi tiết hơn. Giống như để chỉ đường cho ai đó thì phải zoom tấm bản đồ vào chi tiết để họ thấy rõ ranh giới, vấn đề của họ. Ranh giới, khái niệm tuy chỉ là tên gọi nhưng lại là cơ sở để thuyết cho họ hiểu.
Với người làm công hạnh, vừa phải nâng cao cả nội lực cũng vừa phải tinh luyện cả chiêu thức. Việc hiểu rõ từng thừa, từng căn cơ, biểu hiện của phiền não, nguồn gốc của phiền não chính là hiểu rõ bệnh, hiểu rõ các pháp, hiểu vì sao Phật thuyết thế này, hiểu vì sao Phật thuyết thế kia, để giải quyết vấn đề chính là hiểu về “bệnh và thuốc”. Cả 2 sự hiểu biết này càng rộng và sâu thì đem lại nội lực cho người tu đạo.
Tuy nhiên, muốn thi triển nội lực phải có chiêu thức. Làm công hạnh là cơ hội để phát huy chiêu thức, triển khai chiêu thức đúng thời, đúng điểm, đúng người, đúng chỗ. Trong quá trình trao đổi, trò chuyện với mọi người con mới nhận thấy những điều mình tưởng như đã biết mà thực ra chưa hiểu rõ, chưa hiểu rốt ráo.
Nếu nói chuyện thế gian, thì khi tìm được ngọc rồi người thợ gia công mới bắt tay mài ngọc. Nhưng nói chuyện đạo thì lại khác, tìm ngọc là quá trình thấy viên ngọc dần dần hiện rõ trong chính mình, và đặc biệt hơn là “thấy đến đâu có thể mài đến đó”. Thế cho nên thầy thường hay gọi chúng con là “anh thợ vừa học vừa làm”.
Thời gian vừa qua con rơi vào giai đoạn bí tắc về ngôn từ, không thể diễn tả những gì thấy biết của mình bằng câu chữ. Hôm nay có vẻ như sự bế tắc được khai thông một phần nên tâm sự dài dòng. Kính mong Lý Lão Sư từ bi, kiên nhẫn đọc hết mấy lời dài dòng này ạ!
Con, Lý Diệu Tâm