Sinh Hoạt Lý Gia

Tổng Kết Chủ Đề: Ba Mươi Bảy Phẩm

MB 857 Lý Diệu Sinh 10.02.2023

Nhìn chung, Trò Chơi Trí Tuệ - 02/2019 số lượng HĐ tham gia không nhiều...Nhưng bù lại, hầu hết các bài viết đều đạt các yêu cầu của câu hỏi đặt ra !!!

Các bạn !!!

Trò Chơi Trí Tuệ - 02/2019, BQT LÝ GIA đã nhận được trả lời của các HĐ sau: Lý Hậu Vệ (Cần Thơ), Lý Thiện Cảnh (Cần Thơ), Lý Anh Lạc (Cần Thơ), Cụ Bà Nhuận Bình (Quảng Nam), Lý Nhạn Ảnh (Quảng Nam), Lý Văn Tỵ (Quảng Nam), Lý Pháp Dũng (Quảng Nam), Lý Phan Nhân (An Giang), Lý Giác Thư (Hà Nội), Lý Phương Anh (Hà Nội), Lý Hoàng Nhi (Hà Nội) !!! 

Nhìn chung, Trò Chơi Trí Tuệ - 02/2019 số lượng HĐ tham gia không nhiều...Nhưng bù lại, hầu hết các bài viết đều đạt các yêu cầu của câu hỏi đặt ra !!! 

Trước đây, một kì Trò Chơi Trí Tuệ thường diễn ra trong vòng một tuần, vì thế có những năm Lý Gia tổ chức trên 12 kì Trò Chơi Trí Tuệ... Theo kinh nghiệm của mình, một kì Trò Chơi Trí Tuệ diễn ra càng ngắn, số lượng HĐ tham gia càng đông, đến đâu cũng nghe các bạn bàn luận về đề tài kì đó...Có lẽ do tính thời sự và độ nóng của các câu hỏi !!! 

Hai kì Trò Chơi Trí Tuệ vừa qua, do trang Lý Gia mới thành lập, một số HĐ làm bạn của trang chưa quen với loại hình này, nên BQT quyết định kì Trò Chơi Trí Tuệ đầu tiên diễn ra trong vòng một tháng, kì thứ hai 25 ngày...Nhưng, có lẽ thời gian quá dài nên các câu hỏi theo đó cũng phai nhạt, làm giảm dần độ hứng thú, kèm theo cách trả lời mới lạ (trả lời theo hướng dẫn) trong khi đó thói quen của HĐ Lý Gia là trao đổi và trả lời qua email...Có lẽ điều này đã giảm đi số lượng HĐ tham gia rất nhiều (trước đây trung bình một kì Trò Chơi Trí Tuệ trên dưới 30 HĐ tham gia, có khi lên đến 40 bạn) !!! 

BQT dự tính, Trò Chơi Trí Tuệ - 03/2019 chúng ta sẽ tổ chức trong vòng 15 ngày, sau đó có thể giảm xuống còn 7 ngày để tăng nhiệt, như những gì 10 năm qua chúng ta đã thực hiện !!! 

Về đánh giá Trò Chơi Trí Tuệ lần này, có thể nói số bài trả lời không nhiều, nhưng lại rất khó đánh giá và phân loại, vì hầu hết các trả lời đều đáp ứng các yêu cầu câu hỏi đặt ra !!! Để có thể tìm ra câu trả lời hay nhất, ngoài việc trả lời đúng, BQT còn phải tính đến các chỉ số phụ là bài viết có trọng tâm, lập luận vững chắc, thuyết phục, văn tự mạch lạc..v..v... !!! 

Và cuối cùng, nhằm khuyến khích việc tu học trong HĐ chúng ta, BQT quyết định chọn các bài viết của Lý Hậu Vệ (Cần Thơ), Lý Anh Lạc (Cần Thơ), Lý Giác Thư (Hà Nội), Lý Phương Anh (Hà Nội), Lý Hoàng Nhi (Hà Nội) giới thiệu đến mọi người...Đây được coi là CÁC BÀI VIẾT TIÊU BIỂU CỦA TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ - 02/2019 (Không có bài viết hay nhất) !!! 

Về phần thưởng: Như đã hứa, HĐ đạt giải lần này, sẽ nhận một bình (ấm) trà và một gói trà... Nhưng, bình, trà và gói trà mỗi thứ BQT chỉ có một, mà đến năm người đạt giải (nằm ngoài dự tính) !!! Thế nên, BQT thống nhất: Không trao giải bình trà và gói trà như dự kiến (để lại lần sau)...Mà BQT sẽ thay vào đó, có năm phần quà tương đương hoặc cao hơn giá trị của bình trà và gói trà (như đã hứa) để thưởng cho năm vị HĐ đạt giải lần này !!! 

Về các bài viết là như vậy !!! Nhưng, chúng ta không thể không kể đến công sức của một vị HĐ có đóng góp rất lớn (cũng là vị HĐ Lý Gia giác ngộ đầu tiên ở Hà Nội), người đã đưa ra ý tưởng, hình thành và đang quản lí trang Lý Gia, đó là LÝ TƯỜNG VI (mọi người biết đến với nickname Diệu Hiền)...BQT quyết định sẽ dành một “phần quà đặc biệt” để tặng bạn ấy, như là một lời tri ân cho “CON CHIM ĐẦU ĐÀN CỦA TRANG LÝ GIA” !!! 

Xin mời năm vị HĐ có tên nêu trên, liên hệ BQT để nhận quà !!! 

Sau đây là bài viết của LÝ ANH LẠC, LÝ GIÁC THƯ, LÝ PHƯƠNG ANH, LÝ HẬU VỆ VÀ LÝ HOÀNG NHI được BQT đánh giá là năm bài viết hay trong Trò Chơi Trí Tuệ - 02/2019 !!! 

BQT LÝ GIA

1. Bài viết của Lý Anh Lạc

Kính Thầy !!!

Kính HĐTM Lý Gia !!! 

Con xin trả lời hai câu của TCTT 02/2019: 

1)Xin bạn cho biết, ba nhóm Tư lương vị, Kiến đạo vị và Tu đạo vị... Cơ bản tương ứng với những đế nào trong bốn đế ??? Căn cứ vào điều gì, để bạn có thể kết luận về sự tương ưng đó ??? Xin giải thích cụ thể !!! 

Trả lời:

Kính Thầy !!!

Theo con, bốn đế và tam vị có sự tương ứng như sau:

-Tư lương vị tương ứng với Khổ đế và Tập đế.

-Kiến đạo vị tương ứng với Diệt đế.

-Tu đạo vị tương ứng với Đạo đế.

Vì sao như vậy ??? 

Vì mục tiêu tu hành trong Phật đạo là hết khổ, dứt tập, chứng diệt và tu đạo. Để đạt được mục tiêu nêu trên, người tu hành phải ứng dụng triệt để 37 phẩm trong việc tu tập của mình. 

Trước tiên người tu hành dùng Tư lương vị làm hành trang giúp bản thân rời thế gian đạo (khổ đế và tập đế), để chuẩn bị vào thánh đạo (chứng diệt và tu đạo). Khi thực hành 12 phẩm tư lương vị, Nhất tâm như ý túc là phẩm quan trọng nhất. Vì khi nhất tâm thì thấy nghe, và nghĩ suy không còn dong ruỗi, chỉ một lòng một dạ hướng về đạo xuất thế. Giống như người cưa cây lấy lửa, khi cưa chưa được lửa thì không dừng lại. 

Theo con, khi quán một trong bốn Tứ niệm xứ đã như ý, thì trong vị tu hành ấy xuất hiện hai cái biết, một cái biết nhận rất rõ "thân, sự vật, sự việc... đang diễn ra”. Và một cái biết thì thấy rằng: "Thân, sự vật, sự việc... chẳng liên hệ đến mình , nó không ảnh hưởng, không tác động...” Từ cái biết này, các thiền chi như hỷ lạc và định xuất sanh...Do đó phiền não, kiết sử, lậu hoặc...giảm thiểu đến mức thấp nhất. Cảnh giới này gọi là Dứt tập, là hành trang chuẩn bị để kiến đạo vị. 

Vì dứt tập do dùng sức giác (của giác quán) mà được, nên dư âm của giác và một ít kiết sử lậu hoặc nhỏ nhiệm vẫn còn. Muốn giác và các thứ ấy tịch diệt vĩnh viễn, người tu hành phải thấy cho được thanh tịnh tâm, vì thanh tịnh tâm chính là áo giáp giúp tiến gần con rắn (thân, thọ, tâm, pháp..) để nhìn rõ thiệt tướng của nó là rắn hay sợi dây.

Từ cái thấy thanh tịnh ban sơ, cho đến viên mãn thuộc về Kiến đạo vị. Muốn thanh tịnh tâm được viên mãn phải dùng ba học pháp vô lậu để hộ trì.

Do sức hộ trì bởi ba học pháp vô lậu, người tu hành dùng huệ vô lậu làm mũi nhọn để giản trạch tâm và pháp gọi là Trạch pháp giác chi... Khi trạch pháp viên mãn, người này nhận ra “sanh tử khổ chỉ là sợi dây” !!! Vì nhận ra khổ, phiền não, kiết sử chỉ là sợi dây, nên con rắn khổ, phiền não, kiết sử trong tâm thức tịch diệt vĩnh viễn, hành tâm cùng thức dừng, tất cả đồng tự xả, chứng Bất động Giải thoát, hoàn thành mục tiêu của phạm hạnh đề ra (gọi là chứng diệt). Cho nên trong 17 phẩm của Kiến đạo vị, thì Trạch pháp và Xả giác chi là hai phẩm quan trọng nhất. 

Để có thể thành tựu viên mãn Phật đạo, sau khi hoàn thành mục tiêu của phạm hạnh, phần còn lại của người tu hành là cầu Thiện Tri Thức để học trí tuệ. Trí tuệ bao gồm tám môn học của Đạo đế ta quen gọi là bát chánh...Vì thế, Bát chánh đạo chính là tám môn học (tám phẩm) quan trọng của Tu đạo vị. 

Tóm lại: Theo con, hết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo được coi là chủ trương của Phật đạo. Bốn đế là đường lối. Ba mươi bảy phẩm và sức hoạt dụng của nó chẳng khác chính sách. Khi ta có chính sách phù hợp và đường lối rõ ràng, thì chủ trương thành công là điều đương nhiên. 

2)Xin bạn cho biết sự khác biệt giữa tín tâm, tín căn và tín lực ??? Tín tâm, tín căn và tín lực phần nào thuộc thế gian pháp, phần nào thuộc xuất thế gian pháp ??? Tại sao đồng thời ba thứ tín (tín tâm, tín căn, tín lực) đều là niềm tin (tín) mà, có niềm tin thuộc về thế gian giới, có niềm tin thuộc về xuất thế gian giới (cảnh giới), điều gì làm nên sự khác biệt này ??? 

Trả lời:

Kính Thầy !!!

Tín tâm chỉ là lòng tin từ nghe nói, từ giới thiệu, từ nền tảng không như pháp... Không xuất phát từ thực chứng. 

Còn tín căn và tín lực là kết quả của kiến thức như pháp, thực hành như pháp và thực chứng như pháp. 

Tín tâm thì vô thường nên thuộc thế gian pháp, còn tín căn và tín lực là thường nên thuộc xuất thế gian pháp. Vì sao như vậy: 

Vì một khi lòng tin không còn hoặc thay đổi....thì tín tâm thay đổi theo (vô thường)...Nên thuộc thế gian giới. 

Còn tín căn và tín lực là niềm tin được hình thành từ việc nắm vững kiến thức như pháp, kỹ năng thực hành như pháp và có một đời sống như pháp. Vì thế niền tin này thuộc xuất thế gian giới. 

Tóm lại: Sự khác biệt giữa Tín tâm, Tín căn và Tín lực chính là sự thực chứng và không thực chứng trong Phật đạo. Có thực chứng thì Tín căn và Tín lực bất thối...Không thực chứng thì niềm tin này chỉ là tín tâm luôn vô thường thay đổi. 

Trên đây là những phân tích thô thiển của con, nhất định không tránh khỏi thiếu sót, mong Thầy và các HĐTM chỉ dạy. 

Con, Lý Anh Lạc

2. Bài viết của Lý Giác Thư

Kính Thầy !

Con xin đảnh lễ Thầy 3 Lạy !!!

Kính thưa các HĐTM ! 

Con xin tham gia trả lời câu hỏi:

Câu hỏi như sau : 

Câu 1) Xin bạn cho biết, ba nhóm Tư lương vị, Kiến đạo vị và Tu đạo vị ... Cơ bản tương ứng với những đế nào trong bốn đế ??? Căn cứ vào điều gì, để bạn có thể kết luận về sự tương ưng đó ??? Xin giải thích cụ thể !!! 

Trả lời:

Tứ Đế chính là quy trình hay linh hồn của Phật đạo, và 37 phẩm dựa trên Tứ Đế mà thành lập. Đây là công nghệ xử lý theo quy trình (bốn đế), cho nên pháp Tư lương vị tương ưng Khổ Đế và Tập Đế, Kiến đạo vị tương ưng Diệt Đế, Tu đạo vị tương ưng Đạo Đế. 

Nếu, Tứ Diệu Đế là bốn cấp học từ thấp lên cao, có năng lực giáo dục một phàm phu vô văn trở thành người có trí tuệ trong Phật đạo... Thì 37 phẩm chính là giáo trình giảng dạy từ thấp lên cao, giúp người học thành tựu bốn mục tiêu học tập. 

Nếu, Tứ Diêu Đế có 3 tầng nghĩa gồm: Tục Đế, Thánh Đế và Chân Đế... Thì 37 Phẩm cũng có ba tầng nghĩa tương ưng với các tầng của Tứ Đế... Vì thế, 37 Phẩm còn có các tên là Trợ Đạo, Trợ Bồ Đề và Đạo Phẩm... 

Chính sự tương ưng này, ta có thể thấy việc giải thích về 37 phẩm ở Tục Đế khác Thánh Đế, Thánh Đế khác Chân Đế... Và trong chừng mực nào đó của tầng nghĩa Chân Đế, 37 phẩm bây giờ lại trở thành môn học chuyên biệt của Thấu Thị Môn và Thẩm Sát Môn (Chánh Kiến và Chánh Tư Duy) trong quy trình học Nhất Thiết Trí... 

Xét đến đây, ta mới thấy sự hoạt dụng đến vô tận của Tứ Đế và 37 phẩm !!! Nếu mỗi Đế như một cấp học... Thì 37 phẩm hay 37 môn học được phân chia cho từng cấp học phù hợp với trình độ nhận thức về Đạo Pháp như sau: 

  1. a) Cấp Khổ Đế và Tập Đế (cấp I và cấp II) gồm các môn học:

Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc ... Gọi chung là Tư Lương Vị ...Đây là hành trang tri thức tối thiểu, giúp người học vượt qua tám món khổ của nhân gian, cùng mười món Kiết Sử đã cột trói hữu tình trong ba cõi bằng chính sự Giác Ngộ tối sơ, gọi là Sơ Ngộ ... Vị Tu hành này tâm thức bắt đầu chảy vào dòng Giác Ngộ !!! 

  1. b) Cấp Diệt Đế (cấp III) gồm các môn học:

Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi ...Gọi là Kiến Đạo Vị... Là nhóm tri thức thuộc về Xuất Thế Pháp, có công dụng đưa người từ bến bờ Xuất Thế tiến sâu vào Đạo Qủa Xuất Thế, đây là con đường trở thành một vị Thánh thực thụ trong Phật Đạo, hoàn thành mục tiêu cuối cùng của Phạm Hạnh... Như người đi tìm lõi cây, đã tìm được một lõi cây đích thực, đúng nghĩa... Thành tựu Đạo Qủa Giải Thoát !!! 

  1. c) Cấp Đạo Đế (cấp IV) gồm các môn học: 

Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định... Gọi là Tu Đạo Vị... Đây là nhóm tri thức thuộc về Xuất Thế Gian Thượng Thượng, có công dụng biến lõi cây đã tìm được (ở cấp III) trở thành một vật phẩm vô giá mang đến nhiều lơi ích cho đời... Nói khác hơn, tám môn học chân chánh này, giúp một vị Thánh trong Phật Đạo trở thành những vị Bồ Tát thực thụ, trở thành một Đạo Sư đúng nghĩa, với Trí Tuệ Siêu Việt có thể ung dung trở lại thế gian (nhập Pháp Giới, nhập Thế) dùng con thuyền Bát Nhã sẵn sàng đưa người qua khỏi bến mê, đến bờ Giác Ngộ... thành tựu Đạo Trí Tuệ !!! 

Đoạn Kinh sau nói về thành tựu của 37 Phẩm: 

“Niệm xứ trang nghiêm, khéo hay tu tập bốn quán niệm xứ. Chính cần trang nghiêm, đều hay thiện pháp. Thần túc trang nghiêm, thường khiến thân tâm vui vẻ, nhẹ nhàng. Năm căn trang Nghiêm, thâm tín kiên cố, tinh cần không biếng, thường không mê vọng, vắng lặng điều thuận, dứt mọi phiền não. Năm lực trang Nghiêm, mọi oán diệt hết, không gì hoại được. Giác chi trang nghiêm thường khéo giác ngộ hết thảy mọi pháp. Chính đạo trang nghiêm, được chính trí tuệ, thường hiện ở trước. 

CHỈ trang nghiêm nên gột bỏ được hết thảy kiết sử.

QUÁN trang nghiêm nên hay như thực biết được tự tính của mọi pháp.

PHƯƠNG TIỆN trang nghiêm, chóng thành đầy đủ sự vui vô vi’’

(Trích kinh Thập Thiện Đạo - HT. Thích Tâm Châu dịch) 

Riêng về câu hỏi: “Căn cứ vào điều gì, để bạn có thể kết luận về sự tương ưng đó ??? Xin giải thích cụ thể !!!” Con xin trả lời câu này như sau: 

-Đối với Tư Lương Vị: Nhất tâm như ý túc chính là cơ sở tu tập chính yếu, lấy đây làm căn cứ để biết chắc tâm thức ta đang dừng, hành trang tối thiểu đã đủ, chuẩn bị bước vào cảnh giới xuất thế. Vì rằng, tâm thức hữu lậu (thế gian) chưa dừng, chẳng thể thọ nhận cảnh giới vô lậu (xuất thế). Vì thế nó tương ưng Khổ đế và Tập đế. 

-Đối với Kiến đạo vị: Trạch pháp giác chi và Xả giác chi chính là bước chân đầu tiên và đích đến cuối cùng đưa người tu hành bước vào cửa giải thoát. Dùng Huệ vô lậu giản trạch một pháp đến tận nguồn cơn, hệ quả tất yếu là, các chi phần của Thất giác chi tự hiện và rốt ráo tự xả...Tự xả chính là cơ sở chính yếu, người tu hành lấy đây làm căn cứ để biết chắc ta đã vào thành Niết Bàn, tìm được lõi cây Bất Động Giải Thoát. Vì thế nó tương ưng Diệt đế. 

-Đối với Tu đạo vị: Như đoạn kinh trên đã dẫn “Chính đạo trang nghiêm, được chính trí tuệ, thường hiện ở trước”. Tu đạo vị gồm Bát chánh đạo, thành ra từ Chánh Kiến đến Chánh định là tám môn học của Trí Tuệ, học hết tám môn học này, sẽ là cơ sở để người tu hành căn cứ và biết chắc rằng ta đã thành tựu Trí Tuệ trong Phật đạo. Vì thế, Tu đạo vị tương ưng Đạo đế. 

Câu 2) Xin bạn cho biết sự khác biệt giữa Tín tâm, Tín căn và Tín lực là như thế nào ??? Tín tâm, Tín căn và Tín lực phần nào thuộc về thế gian pháp, phần nào thuộc xuất thế gian pháp ??? Tại sao đồng thời ba thứ tín (Tín tâm, Tín căn và Tín lực) đều là niềm tin (tín) mà, có niềm tin thuộc về thế gian pháp, có niềm tin thuộc về thế gian giới (cảnh giới), điều gì làm nên sự khác biệt này ??? 

Trả lời:

- Tín tâm là niềm tin do ta nghe nói , niền tin thì có thể thay đổi nếu niềm tin này bị đánh đổi bởi một niền tin khác mạnh hơn hoặc có sơ sở hơn. 

Giống như người bị bệnh tin vào một lương y nào đó, sau một thời gian chữa trị, bệnh không thuyên giảm hoặc gặp lương y danh tiếng hơn, thì niềm tin vào vị lương y trước thay đổi hoặc không còn. 

Vì thế tín tâm không phải niềm tin từ thực chứng, và nó chỉ dựa vào thấy nghe phát sinh tin tưởng. Tín tâm đôi khi không cần dựa vào cơ sở hoặc không mang tính thuyết phục, chỉ cần nghe người thân hoặc người có uy tín giới thiệu cũng có thể phát sinh niềm tin. Đôi khi do một sự tình cờ nào đó gặp phải vận may, niềm tin phát khởi, do đó tín tâm có chánh tín và mê tín. Dù là chánh tín hay mê tín, tín tâm chỉ là niềm tin thế gian, tồn tại dưới dạng thế pháp không đưa đến thánh vị. Vì thế, niềm tin này thuộc thế gian pháp, không ra khỏi thế gian giới. 

- Tín căn là lòng tin mạnh mẽ vững chắc. Lòng tin ở đây là con đẻ của lý trí, là kết quả của sự thực chứng do sáng suốt và quan sát kỹ càng. Vì lòng tin bắt nguồn bởi tâm chứng, cho nên nó vô cùng vững chắc, mãnh liệt. Chính nó là cơ sở phát sinh mọi hạnh lành. 

Tín căn là thấy rõ con đường ta đi, là kết quả của việc thành tựu Tư lương vị trước đó. Tín căn có phát sinh hay không phụ thuộc rất lớn vào Nhất tâm như ý túc, vì vậy Phật dạy “Như ý túc câu hữu với tư duy thiền định tinh cần hành ...” có nghĩa quán (tư duy) đến rốt ráo thì định (nhất tâm) sanh, khi thân tâm có khuynh hướng dừng lặng (định, nhất tâm), hỷ lạc sinh. Giống như người đào giếng thấy nước, công sức bỏ ra kết quả có được, niềm tin không còn lay chuyển người đào giếng sẽ dốc sức đào cho đến khi thấy được dòng nước vừa ý mới thôi. 

Đây là cơ sở thực chứng phát sinh niềm tin vừa là luận chứng thuyết phục biết con đường mình đi đúng hướng. Từ đây niềm tin mọc ra bám chặt trong tâm, mọi thứ hoài nghi chấm dứt, không thể ngã đổ này chính là Tín căn. Vì thế, Tín căn là niềm tin xuất thế, niềm tin thuộc xuất thế gian giới. 

- Tín lực là thần lực phát sinh từ tín căn, hay sức mạnh lớn lao, vi diệu giúp người tu hành biến tất cả công sức tu hành trở thành công đức vô lậu. Nhờ Tín lực có thể biến tất cả thành công đức, nên nó là cội rễ của xuất thế gian đạo. 

Như vậy chúng ta thấy, Ngũ căn và Ngũ lực vừa làm căn bản, vừa làm nghị lực để phát sinh, tăng trưởng công đức thù thắng. Bất luận người tu tập nào, hễ đã lấy trí làm nền tảng, tinh tấn thực hành Chánh Pháp (tấn), hằng nghĩ nhớ Chánh Pháp để tiến tu (niệm), không mê mờ ngoại cảnh để trừ sạch vô minh phiền não (định), đem diệu huệ vô phân biệt (huệ) thể chứng chân như, thì người ấy thế nào cũng nắm chắc trong tay các quả vị xuất thế của Phật đạo. 

Cho nên có thể kết luận, Tín tâm thuộc về thế gian pháp, nằm trong thế gian giới. Tín căn, Tín lực thuộc về xuất thế gian, là cảnh giới xuất thế gian, còn gọi là xuất thế gian giới. 

Trên đây là những kiến giải của con, còn điều gì chưa đúng, mong Thầy bổ khuyết, chỉ dạy cho con. 

Con xin thành Kính đảnh lễ Thầy !!! 

Con, Lý Giác Thư

3. Bài viết của Lý Phương Anh 

Con Phương Anh kính lạy Thầy, 

Thầy ơi, về trò chơi trí tuệ tháng này, sức con hiện giờ thực chẳng thể đưa ra một bài luận cụ thể chi tiết về giáo pháp. Nhưng sáng nay khi đọc bài của Thầy đăng lên, con cứ suy nghĩ mãi và con quyết định xin phép trả lời 2 câu hỏi Thầy đã nêu ra dựa trên việc quay lại quan sát thành tựu của chính bản thân: 

1)Xin bạn cho biết, ba nhóm Tư lương vị, Kiến đạo vị và Tu đạo vị... Cơ bản tương ứng với những đế nào trong bốn đế ??? Căn cứ vào điều gì, để bạn có thể kết luận về sự tương ưng đó ??? Xin giải thích cụ thể !!! 

Thì theo con:

-Tư lương vị - tương ứng Khổ đế và Tập đế

-Kiến đạo vị - tương ứng Diệt đế

-Tu đạo vị - tương ứng Đạo đế 

Trong 37 phẩm:

-Tư lương vị bao gồm: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc. Và phẩm quyết định viên mãn Tư lương vị giúp chuyển vào cảnh giới mới là Nhất tâm như ý túc.

-Kiến đạo vị bao gồm: Ngũ căn, ngũ lực, Thất giác chi. Và phẩm quyết định viên mãn Kiến đạo vị giúp chuyển vào cảnh giới mới là Xả giác chi. 

-Còn lại Tu đạo vị chính là Bát chánh đạo. 

Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc là những phẩm hỗ trợ việc thấy khổ, biết khổ do đâu. Nhìn lại mình con thấy giai đoạn đó con chăm chỉ tinh cần Chỉ và Quán liên tục, Quán cho đến nguồn cơn của Tâm và Pháp. Như con lắc đồng hồ đang lắc loạn xị bỗng có cái gậy chọc vô khiến tốc độ cũ mất hẳn, vẫn dao động nhưng vận tốc bây giờ chỉ bằng phân mười xưa kia. Những bước chân đầu tiên này khiến con hoát nhiên thấy được Bản lai thanh tịnh, hoát nhiên nếm được vị mật ngọt của giải thoát, để cho khổ đau dừng lại đón bình minh an vui. 

Như con kiến đã nhìn thấy đĩa mật và nếm được 1 chút mật ở mép đĩa, bây giờ nó sẽ muốn tìm cách bơi thẳng vô giữa địa mật ngon lành. Cũng như vậy, con thấy mình khởi một ham muốn tột bậc từ bỏ ngũ dục, một lòng một dạ tinh tấn, đi đến tận nguồn cơn rốt ráo. Việc không phải dễ dàng nhưng con không nản ngược lại thấy hồ hởi, con thấy mình ham thích đọc sách, việc gì cũng lặng lẽ tư duy quán sát, lắng nghe Thầy giảng rồi về ngẫm nghĩ, những cái nào không liên quan đến mục đích con tạm thời gác lại, những cái nào hỗ trợ cho mục đích thì con ham làm, làm không thấy mệt.

Giai đoạn đó, con thấy tuy hiểu biết kinh văn còn rất hạn chế mơ hồ nhiều chỗ, nhưng con rất tin rất hoan hỉ yên tâm, cái niềm tin và niềm hoan hỉ từ trong ruột mà ra. Đồng thời con nhận thấy sự hiểu biết của mình trở nên nhanh nhạy hơn, nhanh chóng nắm bắt thấu suốt sâu chuỗi vấn đề hơn. 

Rồi dần dần Chỉ và Quán bỗng dưng biến đâu mất từ lúc nào ... Một hồi con bỗng thấy mình lâu rồi cứ như vậy, Tâm không sanh Pháp không sanh, mọi thứ trong ngoài cứ đến rồi đi, như vậy như vậy. Bây giờ nhìn lại con nhận ra chính là Nhất tâm như ý túc đã giúp con qua Tư lương vị, đưa đến Ngũ căn ngũ lực giúp con vào một cảnh giới mới, là Kiến đạo vị, biết phải diệt cái gì, nương vào đâu mà diệt. Chính nhờ sức mạnh Nhất Tâm như ý túc mà con được gắn mô tơ, định sinh tuệ sinh. 

Tiếp giai đoạn này, tuy được Tâm không sanh Pháp không sanh, nhưng con thấy chưa rốt ráo. Con nhận ra niệm xứ của mình là ở Pháp, đã giải quyết niệm xứ Pháp được định nhưng định này chưa rốt ráo, con vẫn kẹt ở một chỗ nào đó. Cho đến khi con được nghe Thầy trả lời anh Quyền về mấy câu: 

“Ai biết lý duyên khởi sẽ biết được pháp

Ai biết được pháp sẽ biết được không pháp

Ai biết được không pháp sẽ biết được nghĩa không

Ai biết được nghĩa không sẽ thấy được thật pháp

Ai thấy được thật pháp sẽ thấu suốt Phật pháp”. 

Thì lúc đó con ngỡ ngàng sét đánh ngang tai, con bỗng hiểu ra bản chất của Phật Pháp, biết chỗ mình kẹt, con bỗng thấy con đường của mình. 

Phật pháp là vô lượng pháp và Phật pháp cũng là không, bình đẳng như tất cả các pháp. Phật pháp là trung đạo, là Duyên pháp, là Nhiếp thọ pháp. Phật pháp là pháp nào chưa tường tận chưa hiểu rõ thì giữ lại cho tường tận thấu suốt, còn lại Phật pháp là xả bỏ tất cả các Pháp. Xả pháp còn phải xả huống chi là pháp trụ, thế nên vô niệm, vô trụ, vô tướng. Đồng là không. (Viết đến đây con trực nhận ra cái tên Trò chơi trí tuệ Thầy chọn thật sâu sắc vô cùng tận, đúng tất cả là một trò chơi trí tuệ!!!! Con bỗng cảm nhận được 2 từ Phật Trí, con thực xin nhũn người sụp xuống hoàn toàn quy phục Vô lượng Trí huệ nơi Thầy). 

Từ cái thấy này, con gỡ bỏ được hoàn toàn sự mắc kẹt mơ hồ tự ti, thấy con đường của mình, con đọc kinh Kim Cang và Thắng man con thấy mình cảm nhận được, từ đó dũng mãnh viết thư phát nguyện cầu học trí tuệ gởi Thầy Nhìn lại con thấy chính là Thầy đã Trạch pháp giác chi cho con, dẫn con qua các chi phần khác cho đến cuối cùng là Xả giác chi, và chính Xả giác chi là phẩm quyết định viên mãn Kiến đạo vị đưa người chuẩn bị lên Tu đạo vị. 

- Về câu hỏi thứ 2: “Xin bạn cho biết sự khác biệt giữa tín tâm, tín căn và tín lực là như thế nào ??? Tín tâm, tín căn và tín lực phần nào thuộc thế gian pháp, phần nào thuộc xuất thế gian pháp ??? Tại sao đồng thời ba thứ tín (tín tâm, tín căn, tín lực) đều là niềm tin (tín) mà, có niềm tin thuộc về thế gian giới, có niềm tin thuộc về xuất thế gian giới (cảnh giới), điều gì làm nên sự khác biệt này ???” 

Thì con nghĩ:

-Tín tâm chỉ thuần tuý là niềm tin, và niềm tin này phát xuất hoặc hướng về một thứ ở bên ngoài. Niềm tin này dễ lung lay hoặc bị đánh đổ. Tín căn không xuất phát từ một trung tâm kiểm soát ở bên ngoài mà nó là nội lực phát xuất từ bên trong. Tín tâm cũng phát sinh sức mạnh nhưng sức mạnh này yếu ớt, không bền chắc, không có sự tự định hướng. 

-Tín căn phát sinh sức mạnh, sức mạnh này mới là tín lực, bền chắc và chứa đựng sự tự định hướng, là động lực tự thân. 

Chính vì vậy mới nói, tín tâm là niềm tin thuộc về thế gian, còn tín căn tín lực là xuất thế gian, ra ngoài thế gian không phụ thuộc vào thế gian! 

Con nghĩ có thể tạm lấy ví dụ khác nhau giữa tín tâm và tín căn, tín lực bằng hình ảnh như đứa trẻ đi học ở trường. Có đứa trẻ tin yêu cô giáo, cô giáo bảo gì nó làm như vậy, nó có giỏi là do cô giáo giỏi, nó sáng do cô giáo chiếu vào làm cho nó sáng, đèn tắt thì nó cũng tắt. Có đứa trẻ thì tự thấy yêu thích việc học tìm hiểu khám phá những thứ mới để thoả mãn sự tò mò của nó, nó có khả năng tự học, cô giáo không bảo nó cũng tự nghĩ ra thứ để làm, nó là một ngọn đèn tự sáng. 

Điều làm nên sự khác biệt chuyển từ tín tâm sang tín căn từ đó phát xuất tín lực theo con chính là thực chứng Quán niệm xứ, thành tựu Niệm như ý túc. 

Quay lại quan sát quá trình của mình, con thấy trước kia khi mới được đọc sách của Thầy con thấy hay quá hay, con thích lắm đọc đã là đã à, con xin Thầy làm đệ tử thì khi đó nó vẫn đâu đó là Tín tâm, là tin vào những lời của một người là Thầy. Sau đó, quá trình con được Thầy chỉ dạy dìu dắt, đưa những điều Thầy đã khai thị vào THỰC HÀNH. Chỉ và Quán liên tục, đến một lúc rốt ráo Quán niệm xứ, tự mình thực chứng cái sự “đang bão bỗng hốt nhiên bình an, tự do, tự tại. Cái sự tự do tự tại vượt ra ngoài miêu tả của ngôn ngữ thế gian” thì tín căn bắt rễ sinh ra tín lực giúp con lại càng Nhất tâm như ý túc, tinh tấn bước đường tu tập. 

Có thể lại vẫn lấy ví dụ về đứa trẻ đi học để làm sáng tỏ điều này. Một đứa trẻ học thụ động sẽ trở thành một đứa trẻ tự học sau khi chúng thấy việc học của chúng thực rất hữu ích cho chúng (mới biết đọc mấy chữ ra siêu thị tự biết đọc đây kẹo ngọt hay kẹo cay để chọn mua thế là về hỉ hả ăn và quyết chí học đọc thông thạo mà không cần ai giục 

Mấy lời quan sát lại hành trình của mình, văn tự ngữ ngôn của con hạn chế tối nghĩa quá. Con kính mong Thầy thông cảm và khai thị cho con. 

Con xin kính lạy Thầy, 

Con, Lý Phương Anh

4. Bài viết của Lý Hậu Vệ 

Kính Thầy !!!!

Cùng các thành viên BQT, và HĐTM !!!! 

Con xin tham gia trả lời câu hỏi:

1) Xin bạn cho biết, ba nhóm Tư lương vị, Kiến đạo vị và Tu đạo vị... Cơ bản tương ứng với những đế nào trong bốn đế ??? Căn cứ vào điều gì, để bạn có thể kết luận về sự tương ưng đó ??? Xin giải thích cụ thể !!! 

Trả lời:

Theo hiểu biết của con, Tư lương vị tương ứng Khổ đế và Tập đế. Kiến đạo vị tương ứng Diệt đế. Tu đạo vị tương ứng với Đạo đế. 

Nói đến Phật đạo là nói đến mối liên hệ giữa bốn đế và 37 phẩm. Bốn đế là nền móng, còn 37 phẩm là 37 tầng của một kiến trúc. Vì vậy phân chia trên được căn cứ như sau. 

-Tư lương vị là gồm có 12 phẩm, đó là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc. Mục tiêu của tư lương vị, là giúp người tu hành thành tựu nhất tâm. Đây là điều kiện, cơ sở căn cứ cần và đủ để người tu hành bước lên thuyền giác ngộ vào cảnh giới xuất thế. Do đó, ta có thể kết luận Tư lương vị tương ưng với Khổ và Tập đế. 

-Kiến đạo vị gồm có 17 phẩm, đó là: Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi. Sau khi vị ấy chuẩn bị rời khỏi thế gian vào cảnh giới xuất thế, như người đi đêm có được ngọn đuốc trên tay, niềm tin và sức mạnh tu tập..v..v..tăng lên gọi là Ngũ căn, Ngũ lực. Bây giờ vị ấy dùng sức mạnh của Niệm lực và Huệ lực phân tích tâm và pháp, lấy Trạch pháp giác chi làm nòng cốt, từ đó Thất giác chi hình thành. Cuối cùng, vị tu hành tịch diệt tâm và pháp hư vọng gọi là Định giác chi, khi định này viên mãn, tâm thức tự xả gọi là Xả giác chi. Trạch pháp giác chi và Xả giác chi chính là điều kiện, cơ sở căn cứ cần và đủ để vị này chấm dứt lậu hoặc, hoàn thành mục tiêu xuất thế. Do đó, ta có thể kết luận Kiến đạo vị tương ưng với Diệt đế. 

-Tu đạo vị là gồm có 8 phẩm của Bát chánh, đó là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Tám điều chân chánh nói trên thành tựu trong quá trình học Đạo đế. Đây là điều kiện, cơ sở căn cứ cần và đủ để vị này thành tựu trí tuệ. Do đó, ta có thể kết luận Tu đạo vị tương ưng với Đạo đế. 

2) Xin bạn cho biết sự khác biệt giữa tín tâm, tín căn và tín lực là như thế nào ??? Tín tâm, tín căn và tín lực phần nào thuộc thế gian pháp, phần nào thuộc xuất thế gian pháp ??? Tại sao đồng thời ba thứ tín (tín tâm, tín căn, tín lực) đều là niềm tin (tín) mà, có niềm tin thuộc về thế gian giới, có niềm tin thuộc về xuất thế gian giới (cảnh giới), điều gì làm nên sự khác biệt này ??? 

Trả lời:

Theo con, sự khác biệt giữa Tín tâm, Tín căn, Tín lực có thể giải thích như sau: 

-Tín tâm chỉ là niềm tin, mà đã là niềm tin thì có thể thay đổi bất kì lúc nào khi niềm tin ấy không đáp ứng nguyện vọng của sự tin cậy. Giống như người bệnh uống thuốc nhiều ngày mà bệnh không giảm, niềm tin vào thứ thuốc mình đang uống sẽ không còn nữa. Tín tâm thuộc về niềm tin bình thường của thế gian. 

-Tín căn và Tín lực là thứ niềm tin được tạo lập bởi sự thấy biết chắc thật (thực chứng), giống như người bệnh do uống đúng thuốc mà bệnh tình giảm nhẹ, do đó niềm tin này không thể thay đổi. Tín căn và Tín lực chính là niềm tin xuất thế phát sinh từ chính sự thực chứng của người tu hành. 

Trong 37 phẩm thì Tín căn và Tín lực thường song hành với nhau cái này có nên cái kia có. Giống như người lạc giữa rừng đêm, thấy có ngọn đèn ở bìa rừng dụ cho Tín căn, nhất định người ấy sẽ nổ lực để ra khỏi khu rừng, nổ lực để ra khỏi khu rừng dụ cho Tín lực. 

Từ những lí giải nêu trên cho thấy, Tín tâm có thể thay đổi, mà cái gì thay đổi Phật đạo gọi đó là vô thường, đã là vô thường thì thuộc thế gian giới. Cái gì không thay đổi thì nó sẽ là thường, Phật đạo gọi thứ đó thuộc về xuất thế gian giới. 

Trên đây là hiểu biết của con, có điều gì sai sót kính mong Thầy cùng BQT từ bi chỉ dạy. 

Con xin đảnh lễ Thầy ba lễ. 

Xin chúc Thầy thật nhiều sức khoẻ, để HĐTM chúng con, và những ai đủ duyên gặp Thầy được nhiều lợi ích. 

CON, LÝ HẬU VỆ

5. Bài viết của Lý Hoàng Nhi 

Kính thầy!!! 

Con xin được nêu lên kiến giải của mình về các câu hỏi trong TCTT 02/2019!!! 

1) Xin bạn cho biết, ba nhóm Tư lương vị, Kiến đạo vị và Tu đạo vị... Cơ bản tương ứng với những đế nào trong bốn đế ??? Căn cứ vào điều gì, để bạn có thể kết luận về sự tương ưng đó ??? Xin giải thích cụ thể !!! 

- Thưa thầy, con xin trả lời như sau:

*Nhóm Tư lương vị, tương ứng với Khổ đế và Tập đế.

*Nhóm Kiến đạo vị, tương ứng với Diệt đế.

*Nhóm Tu đạo vị, tương ứng với Đạo đế. 

Căn cứ vào 37 phẩm ví như 37 môn học của 4 cấp học là Tứ đế, để giải thích câu trả lời trên: 

Tư lương vị, là hành trang tối thiểu để người tu hành có đầy đủ điều kiện vào cõi xuất thế!!! 

Gồm có 12 phẩm: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc. Trong đó, Nhất Tâm Như Ý Túc là điều kiện ắt có và đủ để người tu hành bước một chân vào đạo xuất thế!!! 

Bởi, khi người này nhất tâm - một lòng một dạ hướng đến đạo quả xuất thế, mọi nghiệp quả chung quanh sẽ tạm dừng (như các lậu hoặc, kiết sử, ... không hiện khởi) hay còn gọi là “Nhất tâm dừng hiện nghiệp”!!! Nhưng nếu người này, mong cầu về cõi nước an tịnh - nơi đạo xuất thế, mà lại không nỡ từ bỏ ba cõi hôi nhơ này thì mãi mãi chỉ có thể là cư dân ở ba cõi!!! 

Kiến Đạo Vị, gồm có 17 phẩm: Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi. 

Tuy chỉ mới bước một chân vào đạo xuất thế, một chân còn ở thế gian. Nhưng khi nhìn thấy được cõi nước an tịnh, biết được con đường đi đang đúng, người tu hành bắt đầu khởi Tín Căn - niềm tin lúc này không thể lung lay được và song song đó là Tín Lực - sức mạnh tăng thêm từ niềm tin vững chắc!!! 

Tuy Căn và Lực đầy đủ, người này gần như ở trong đạo xuất thế nhưng vẫn chưa hoàn toàn... 

Với trí tuệ lúc này bắt đầu sáng lên, đọc kinh không còn mù mờ như xưa và để xâm nhập vào con đường kinh điển, người này cần thông qua Thất Giác Chi!!! 

Ở Thất Giác Chi, người này lấy Trạch Pháp Giác Chi để phân tích một vấn đề của Phật Pháp đến nơi đến chốn khi đọc kinh hay nghe Thiện Tri Thức giảng. 

Khi hiểu được ý nghĩa thì luôn nhớ nghĩ, không quên (Niệm Giác Chi). Đưa Tâm, Ý vào đúng nghĩa trong Phật Đạo thì Hỷ Giác Chi và Khinh An Giác Chi tự hiện. Bởi thực chứng như vậy, sức tinh tấn của người này không dừng lại (Tinh Tấn Giác Chi). Tinh tấn không giảm nên người này dần thấu suốt vấn đề và nghĩa giải thoát hiện ra (Định Giác Chi). Đến khi Định này bão hòa thì tất cả pháp tự xả, gọi là Xả Giác Chi. 

Trạch Pháp Giác Chi và Xả Giác Chi là cơ sở mà Kiến Đạo Vị tương ưng với Diệt Đế. Vì Trạch pháp đến nơi đến chốn thì những giác chi sau sẽ tự thành tựu, chấm dứt lậu hoặc, kiết sử. Và đến cuối cùng là Xả Giác Chi, do xả tất cả mà được cảnh giới Niết Bàn, hoàn thành đạo xuất thế của ba thừa, mang ý nghĩa Diệt Đế đã viên mãn. 

Tu Đạo Vị, gồm 8 phẩm là Bát Chánh Đạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Bát Chánh Đạo chính là cơ sở tương ưng với Đạo Đế. 

Từ đây, vị này cầu học trí tuệ, dần thành tựu 8 điều chân chánh trên con đường tu học Đạo Đế, thành tựu Trí Tuệ trong Phật Đạo!!! 

2) Xin bạn cho biết sự khác biệt giữa tín tâm, tín căn và tín lực là như thế nào ??? Tín tâm, tín căn và tín lực phần nào thuộc thế gian pháp, phần nào thuộc xuất thế gian pháp ??? Tại sao đồng thời ba thứ tín (tín tâm, tín căn, tín lực) đều là niềm tin (tín) mà, có niềm tin thuộc về thế gian giới, có niềm tin thuộc về xuất thế gian giới (cảnh giới), điều gì làm nên sự khác biệt này ??? 

Trả lời:

Thưa thầy, con xin trả lời như sau:

Tín tâm: chỉ đơn thuần là niềm tin do nghe nói mà phát sinh tin tưởng, đôi khi không cần cơ sở thuyết phục chỉ cần nghe từ người thân hoặc người có uy tín. Niềm tin này có thể bị thay đổi khi nghe nói từ nơi uy tín hơn. 

Như người bệnh, sau một thời gian uống thuốc, bệnh tình không thuyên giảm sẽ chuyển qua người thầy khác hoặc giải pháp khác do được giới thiệu hoặc nghe nói... Tín tâm thuộc về thế gian giới, vì niềm tin này có thể bị thay đổi mà cái gì có thể thay đổi là vô thường! 

Tín căn và tín lực: là niềm tin từ thấy biết chắc thật từ thực chứng, không gì có thể làm ngã đổ niềm tin này được (Tín căn). Niềm tin ngày càng vững chắc, tăng sức mạnh giúp người tu hành mau thành tựu (Tín lực). 

Tín căn và tín lực trong 37 phẩm Trợ Đạo không tách rời mà song hành với nhau, tức cái này sinh thì cái kia sinh. Như người bệnh, sau một thời gian uống thuốc, bệnh tình thuyên giảm và người này cảm nhận được nên tin chắc vào vị lương y này (Tín căn), người này tuân thủ mọi lời căn dặn từ vị lương y, đều đặn uống thuốc để hết bệnh (Tín lực). Tín căn và tín lực thuộc về xuất thế gian giới, vì niềm tin này có cơ sở thực chứng thuyết phục, không thể thay đổi, là thường! 

Hôm nay, con cũng đã viết xong các câu trả lời để trình lên thầy mà phải thông qua rất nhiều phương tiện. Tuy là quá trễ so với thời gian thầy đề ra. Nhưng con cũng xin thầy hoan hỷ với những kiến giải và lập luận này của con, có điều gì sai sót mong thầy từ bi chỉ dạy cho con ạ!!! 

Kính chúc thầy luôn mạnh khỏe !!! 

Con, Lý Hoàng Nhi