Sinh Hoạt Lý Gia

Tổng Kết Chủ Đề: Chuyển Thức Thành Trí

MB 857 Lý Diệu Sinh 10.02.2023

Tổng kết Trò chơi trí tuệ số 03.2020 với số lượng trả lời đúng, trả lời hay quá nhiều !!! Nên BQT không thể chuyển toàn bộ các bài viết đến mọi người… Mà chỉ đăng lên trang một số bài tiêu biểu giúp các bạn tham khảo !!!

Các bạn !!!

Trò Chơi Trí Tuệ – 03/2020 khởi động vào ngày 11/04/2020 đến nay đã được 15 ngày, và kết thúc vào ngày hôm qua 26/04/2020 !!!

Trong thời gian diễn ra, BQT nhận được tổng cộng 19 bài viết trả lời của các HĐ sau:
1- Lý Thiện Cảnh; 2- Lý Anh Tỵ; 3- Lý Diệu Tâm; 4- Lý Phạm Thuỳ; 5- Lý Tâm Pháp; 6- Lý Nhạn Ảnh; 7- Lý Thái Đăng; 8- Lý Hậu Vệ; 9- Lý Giác Thư; 10- Lý Hạnh Viên; 11- Lý Kim Liên; 12- Lý Thiện Huệ; 13 – Lý Liêm; 14- Lý Tuấn; 15- Lý Đức Việt; 16- Lý Ngọc Thuý; 17- Lý Viết Uyên; 18- Lý Ngọc Hỷ; 19- Lý Nguyên Trang (gởi bài nhưng không tham gia giải) !!!

Trong 19 trả lời, có đến 14 bài viết đáp ứng tất cả các yêu cầu bốn câu hỏi đặt ra, cụ thể như sau:
– Tây Nguyên: LÝ THÁI ĐĂNG, LÝ NGỌC HỈ, LÝ KIM LIÊN và LÝ VIẾT UYÊN (4 HĐ)!!!
– Sài Gòn: LÝ PHẠM THUỲ (1 HĐ)!!!
– Miền Trung: LÝ NHẠN ẢNH, LÝ ANH TỊ, LÝ TUẤN và LÝ ĐỨC VIỆT (4 HĐ)!!!
– Miền Tây: LÝ HẬU VỆ, LÝ LIÊM, LÝ NGỌC THUÝ (3 HĐ) !!!
– Miền Bắc: LÝ GIÁC THƯ, LÝ DIỆU TÂM (2 HĐ) !!!

Đặc biệt, trong kì TCTT lần này, có bốn vị HĐ mới gia nhập Lý Gia, cũng là những người tham gia TCTT lần đầu, và có đến ba vị HĐ trả lời đúng cả bốn câu hỏi, một vị sai câu một !!! Xin tán thán sức tinh tấn của bốn vị HĐ mới của chúng ta !!!

Một vài HĐ cũ trả lời sai câu một và câu bốn, có bài viết hay, nhưng có lẽ do “chủ quan”, không tư duy tận nguồn cơn, vì thế mắc một vài sai sót không đáng có !!! Hy vọng lần sau cẩn thận hơn !!!

Số lượng trả lời đúng, trả lời hay quá nhiều !!! Nên BQT không thể chuyển toàn bộ các bài viết đến mọi người… Mà chỉ đăng lên trang một số bài tiêu biểu giúp các bạn tham khảo !!!

Chúc tất cả bạn đọc và HĐTM Lý Gia an vui, tinh tấn !!! !!! Hẹn gặp lại mọi người ở TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ – 04/2020 !!!
27/04/2020
LÝ TỨ

Sau đây, là một số bài viết tiêu biểu !!!

1. Bài viết của Lý Thái Đăng

Kính Thầy !
Kính thưa các HĐTM Lý Gia!
Con xin trả lời câu hỏi TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ – 03/2020 !

1) Sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí”… Người tu hành có thể chuyển thẳng “tám thức” đến “đại viên cảnh trí” mà không cần thông qua việc chuyển “thức thứ sáu” và “thức thứ bảy” có được hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Đề nghị giải thích và đưa ra ví dụ cụ thể ???

Trả lời:
Sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí”… Người tu hành không thể chuyển thẳng “tám thức” đến “đại viên cảnh trí” mà không cần thông qua việc chuyển “thức thứ sáu” và “thức thứ bảy” bởi những lý do như sau:

Kinh Phật dạy “tam cõi duy tâm, vạn pháp duy thức”, “ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ tạo tác”…

Qua lời Phật dạy, có thể thấy vị trí vai trò đặc biệt của “ý thức” vốn là gốc của vô minh nên được gọi là “căn bổn”, là đầu mối liên hệ để chỉ huy vạn pháp nên được gọi là “làm chủ”, là nơi tập nhân giao báo hóa hiện ra vô vàn cảnh giới nên được gọi là “tạo tác”. Hay có thể ví, ý thức là trung tâm đầu não chỉ huy tất cả các thức còn lại, là gốc rễ phát sanh ra mọi vấn đề, và chỉ có GIÁC NGỘ được bổn tâm, mới có thể giải quyết, chấm dứt mọi rắc rối liên quan đến đầu mối trung tâm chỉ huy này, còn ngược lại thì “bất thức bổn tâm học pháp vô ích” (lời Tổ)!!!…

Ý thức phát sanh bởi niệm mê, tồn tại nhờ phân biệt và duy trì vòng quay luân hồi sanh diệt của chúng sanh.

Ý thức sống dai như con đỉa bám víu hai đầu. Một đầu thò ra bên ngoài bám vào ba duyên hòa hợp (căn trần thức) và một đầu bám chặt bên trong (a lại da thức) do mạt na thức thủ giữ điều phối cung cầu. Nếu đầu bên ngoài bị cắt đứt thì nó vẫn duy trì sự hoạt động nhờ đầu bên trong.

Đối với việc Giác ngộ trong đạo tràng Lý Gia có đốn có tiệm và đã được Thầy giải thích rất rõ “Tuỳ theo nỗ lực, tuỳ theo nhận thức sâu hay cạn, tuỳ theo tốc lực tâm, tuỳ hoàn cảnh và tuỳ theo mức độ nhiễm ô của từng người, sự chuyển đổi này xảy ra mau hay chậm trong chính con người ấy.

Nhận thức sâu hay cạn và sức tinh tấn chính là yếu tố then chốt quyết định sự chuyển đổi thành công lâu hay mau, Phật giáo gọi là đốn hay tiệm. Có người chỉ trong sát na, xả bỏ tất cả những gì được gọi là chúng sanh, thánh trí liền hiện. Cũng có những người nhận thức không sâu hoặc nhận thức sai lệch, phải mất một thời gian dài chuyển đổi mới thành công” (Lý Tứ).

Tóm lại: Con đường Phật đạo đi qua Tứ đế, ba mươi bảy phẩm, mười hai nhân duyên hay chuyển thức thành trí… là diệu pháp, là độc đạo, trung đạo, là bát nhã chơn chánh, là giác ngộ giải thoát và trí tuệ … Nhanh chậm là do tốc lực tâm chứ không phải do mở thêm đường ngang lối rẽ, đi tắt đón đầu, bỏ qua thức thứ sáu” và “thức thứ bảy”, để nhảy vào Đại viên cảnh trí.

2) Khi ta chuyển thức thứ sáu (ý thức) thành “diệu quan sát trí” thì thức thứ bảy (mạt na thức) sẽ tự động chuyển theo, thành “bình đẳng tánh trí”… Hay ta phải tuần tự theo thứ lớp mà chuyển hai thứ thức đó ??? Vì sao hai thức ấy tự động chuyển, hay ta phải tuần tự chuyển ??? Đề nghị giải thích cụ thể và thuyết phục ??? Nếu có ví dụ càng tốt !!!

Trả lời:
Bàn về vị trí, vai trò, chức năng của Ý thức và Mạt na thức…và quá trình chuyển thức thành trí, đã được Thầy chỉ rõ:

“• Ý thức là thức thứ sáu, thức này có công năng nghĩ suy, phân biệt, thị phi, quyết định. Sau khi giác ngộ, tính chất phân biệt, thị phi mất đi, nghĩ suy trở nên sáng suốt, nghĩ suy đúng như bản chất của vấn đề chứ không dựa vào hiện tượng, tình cảm hay cơ hiềm mà kết luận, vì thế tâm không dao động hay hoài nghi trước kết quả của nghĩ suy, bây giờ ý thức trở thành Diệu quan sát trí.

Nói khác hơn, Diệu quan sát trí chính là sự thấu suốt bản chất của vấn đề, nên một kết quả như thật tức thì hiện khởi, còn gọi là trực nhận. Sự trực nhận này không do bởi dụng công, còn gọi là vô công dụng đạo. Vì vô công dụng đạo nên định sanh, định này chính là vô vi định nên tưởng uẩn sẽ tịch diệt, tưởng uẩn tịch diệt gọi là thanh tịnh tưởng, một trong những công cụ để trở thành Thần túc thông sau này.

• Mạt na thức đã bị chuyển hoá, chấp nhất, đấu tranh, hơn thua, được mất đều tịch diệt, nên ngã cũng không còn đất sống, vì thế tịch diệt theo. Giống như hạt giống treo giàn bếp, không thể nảy mầm. Ngã tịch diệt, từ bi sanh khởi, từ bi sanh khởi hai tướng nhân ngã không còn, nhân ngã không còn Mạt na thức đổi tên thành Bình đẳng tánh trí.

Bình đẳng tánh trí, cho ra thấy biết bình đẳng từ chúng sanh, thân tâm đến thế giới, cho nên khổ vui không hiện khởi trong tâm. Trong tâm không nhận chịu khổ vui nên thọ uẩn tịch diệt, thọ uẩn tịch diệt trung tế tịch diệt, trung tế tịch diệt hậu tế tịch diệt, hậu tế tịch diệt hậu hữu thân tịch diệt, hậu hữu thân tịch diệt sanh lão tử chấm dứt.”(Lý Tứ)

Qua hai áng văn của Thầy diễn tả về cảnh giới của ý thức, mạt na thức và quá trình chuyển đổi… con nhận ra rằng Tâm, Pháp, Ngã tuy ba tên gọi, nhưng cùng bản chất, chung gốc chung rễ, chung nguồn thức ăn, quan hệ khăng khít, không thể tách rời.

Ý thức (như gốc), mạt na thức (như rễ) tạo ra quan hệ gốc rễ nương nhau, mà được gọi là “căn bổn vô minh” và cùng chung quy luật lý duyên khởi nên, gốc còn thì rễ còn, gốc tan thì rễ tiêu.

Theo lời Thầy dạy thì “Ý mê trần mà sanh pháp, mê pháp mà sanh tâm, lầm tâm mà sanh phiền não, tắt lửa phiền não tức Niết bàn”; Còn Mạt na thức cũng tương tự, nhưng ở cấp độ mê sâu hơn, do ý mê sâu đậm, thủ giữ pháp mà tích uẩn, nương uẩn mà sanh ngã, tựa ngã (hư vọng) mà sinh phiền não… Tắt lửa phiền não mà được mãi vui.

Mặc dù hai nhánh, nhưng cùng gốc mê. Hết mê hết gốc (vô minh), thì rễ (ngã) cũng tan, hai nhánh đồng thanh tịnh, phân biệt chấm dứt, hành tâm chấm dứt, bình đẳng tâm xuất hiện, phiền não chẳng còn, mạt na thức đổi tên thành Bình đẳng tánh trí.

Xét về quy luật “ngũ uẩn giai không…” cũng cho ra kết quả không khác. Năm món (sắc, thọ tưởng, hành, thức) khi bị ám ảnh, che mờ ở cấp độ nhẹ gọi là “ngũ ấm” (hay ám) được gọi là “nhuận chi vô minh” nhưng tích chứa lâu ngày, hay cấp độ sâu đậm hơn mà “ngũ ấm” chuyển thành “ngũ uẩn” đồng nghĩa với tập hợp, tích chứa (vô minh, tôi, ta, ngã mạn…) khi gặp đủ duyên thì tiếp tục thúc đẩy hạt giống (gốc vô minh), nẩy mầm (danh sắc), đâm rễ (mạt na…) lan ra (trụ địa) hút lấy (vô minh) mà phát triển gốc rễ, hợp thành “căn bổn vô minh” và rừng rậm vô minh.

Căn bổn vô minh hoạt động theo quy luật cơ chế thị trường. Có thể ví, tâm như thị trường, ý thức như nhà máy sản xuất, pháp là sản phẩm, ngã (uẩn) là nhà quản lý. Khi thị trường có nhu cầu thì nhà máy sản xuất, quản lý chỉ huy theo dõi cung cầu. Khi thị trường chấm dứt nhu cầu, thì nhà máy phá sản, quản lý giải tán.

Do vậy: Khi ta chuyển thức thứ sáu (ý thức) thành “diệu quan sát trí” với cảnh giới: Tâm không thì pháp cũng không; Uẩn tiêu ngã diệt trong lòng rổng rang; do vậy mà thức thứ bảy (mạt na thức) sẽ tự động chuyển theo, thành “bình đẳng tánh trí” mà không phải phải tuần tự theo thứ lớp.

3) Khi tám thức chuyển thành bốn trí…Thức thứ chín là “lưu chú thức” có chuyển theo hay không??? Thức thứ chín đóng vai trò gì trong sinh hoạt tâm thức của một hữu tình ??? Xin cho ví dụ cụ thể, để minh hoạ vai trò của thức thứ chín trong sinh hoạt tâm thức ???

Trả lời:
Theo lời dạy của Thầy:
• Lưu chú thức, đây là thức phụ, nó không có chức năng làm cho mê hay giác, cũng không bị ảnh hưởng bởi mê hoặc ngộ… Nó như dòng hải lưu âm thầm chảy dưới đáy biển mang các thứ trong biển từ nơi này đến nơi khác. Giống như người thư ký của một hãng lớn, chỉ làm công việc do ông chủ sai bảo, không thể quyết định chuyện thành bại của hãng.

Lưu chú có nhiệm vụ ghi nhận và đem các thông tin từ sáu thức cất vào A lại da, khi cần nó đem ra cho Ý hay Mạt na sử dụng… Vì thế kinh dạy, “thức diệt chứ Lưu chú không diệt”. Khi giác ngộ, Lưu chú cũng âm thầm làm công việc từ trước… Phật dạy: “Tướng sanh trụ diệt và Lưu chú sanh trụ diệt, không thể suy nghĩ biết được…”.(Lý Tứ)

Một hữu tình sanh ra, thức phân biệt đã lan ra nhiều chốn. Bản chất thức hữu tình vốn vô minh, do duyên hành mà thành chín thức (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, mạt na, a lại da và lưu chú thức). Chín chỗ có thức tham gia thì tám nơi bị thức tác động làm cho mê mờ loạn động, riêng lưu chú thì không ảnh hưởng bởi mê hay ngộ.

Lưu chú trong sinh hoạt tâm thức có vai trò kết nối để giúp mạt na thức duy trì mạng căn của một hữu tình. Giả sử thức thứ 6 (ý thức) có bị bất tỉnh (mất tính chỉ huy, kiểm soát lục căn) thì không vì thế mà tim dừng đập, phổi ngừng thở… và lưu chuyển thức trong hữu tình dừng nghỉ, mà các thức còn lại vẫn âm thầm hoạt động nhằm duy trì sự sống cho hữu tình theo thức nghiệp.

Ngoài chức năng giúp việc kết nối (kết dính các đại) làm nên đời sống hữu tình, lưu chú còn đóng vai trò chức năng như người giao hàng (shipper). Hàng hóa lưu chú mang theo để chuyển giao đã được niêm phong đóng gói cẩn thận, do vậy mà nội dung tính chất hàng hóa không còn tác động vào thấy biết của các căn… Shipper âm thầm, cần mẫn giao hàng mà không bị các tính chất của hàng hóa làm cho buồn vui, thương nhớ hay giận hờn… do vậy mà phiền não chẳng gắn được vào với Shipper. Người giao hàng lúc này giống như người tu hành được yểm ly triệt để trần cảnh.

Mặc dù ba món (vô minh, hành, thức) có mặt đầy đủ nhưng (lưu chú) vẫn không phát sanh phiền não, phải chăng lưu chú đã thành công trong việc ứng dụng bài pháp “các căn tu tập”?.

Phiền não không xảy ra trên lưu chú, có lẽ do vậy mà lưu chú không có thức để chuyển thành trí như tám món thức kia. Giả sử người tu hành (tự độ) đạt cảnh giới như lưu chú cũng có thể coi là một thành công có được “niết bàn” trú ngụ của người (chán khổ tìm vui).

Đối với các vị Bồ tát thực hành hạnh nguyện cứu độ chúng sanh, thì đây cũng là cảnh giới như sen sống trong bùn, sống trong cõi dục mà không nhiễm dục, sống trong cõi sắc mà không mê mờ sắc, nhờ “phiền não tức bồ đề” mà phát sanh trí tuệ.

Suy nghĩ đến đây con nhớ lại lời Thầy nhắc nhở Giác ngộ, giải thoát và thành tựu trí tuệ mới là mục tiêu cần hướng đến, do vậy… nếu tu hành còn lại 20 đến 30% phiền não cũng là nhân lành, là vốn quý, là đương cơ để cầu Bậc Thầy trí tuệ chỉ dạy nguyên lý giúp học trò phát sanh trí tuệ, để không như Tu Bồ Đề lúc gặp Phật khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, mới nhận ra và… than khóc nức nở!!!

4) Ba giai đoạn chuyển biến của “hàm tàng thức” đến “bạch tịnh thức” và cuối cùng là “Như Lai tàng tâm” từ một phàm phu vô văn đến giác ngộ rốt ráo… Sau khi đã chuyển, ba thứ trên được chuyển “tận gốc bản chất của nó” hay chỉ chuyển “trên hiện tượng nhận biết” (của người đó) thông qua việc “thay đổi nhận thức” ??? Để nghị giải thích vì sao ba thứ ấy chuyển tận bản chất hay chỉ chuyển trên hiện tượng ??? Cho ví dụ minh hoạ !!!???

Trả lời:
Để làm sáng tỏ “Ba giai đoạn chuyển biến của “hàm tàng thức” đến “bạch tịnh thức” và cuối cùng là “Như Lai tàng tâm”…” ta cần hiểu rõ khái niệm Bản chất và hiện tượng trong pháp xuất thế và bản chất hiện tượng trong triết học của pháp thế gian.

Căn cứ lời chỉ dạy của Thầy:
“Trong Phật đạo, có một số khái niệm gần gũi với triết học. Hai khái niệm gần gũi nhất của Phật đạo với triết học, đó là cặp phạm trù bản chất và hiện tượng của triết học, và cặp khái niệm thiệt tướng và hư vọng tướng của Phật giáo.

“Triết học cho rằng, bản chất là cái tồn tại khách quan gắn liền với sự vật, hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất… Và triết học cũng cho rằng, không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng, cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất….

Về hai khái niệm thiệt tướng và hư vọng tướng của Phật giáo:
Nếu coi thiệt tướng là bản chất của sự vật, hư vọng tướng là hiện tượng của sự vật ấy. Phật giáo lại có cái nhìn khác triết học. Phật giáo cho rằng, bản chất không có mối liên hệ bất kỳ nào đến hiện tượng, tức thiệt tướng và hư vọng tướng là hai phạm trù riêng biệt, không có mối liên hệ biện chứng với nhau.

Có nghĩa rằng, bản chất siêu quá hiện tượng. Nó không phải cái mà hiện tượng có thể biểu hiện, vì hiện tượng thuộc về hữu vi, tức cái có. Còn bản chất, thuộc về vô vi, cái không thực thể, trong bản chất cũng không có cái được gọi là tinh thần làm nên hiện tượng…

Bản chất, theo Phật giáo, là cái gì bất biến, chung nhất của tất cả sự vật, không thể thay đổi, không thể dùng tri thức đến được. Do đó hiện tượng không được coi là biểu hiện của bản chất, và không thể tìm hiểu bản chất thông qua hiện tượng dù dưới bất kỳ hình thức nào. Giống như một người giàu có, ngủ mơ thấy mình nghèo đói.

Phật giáo cho rằng, hư vọng tướng hay hiện tượng, là một thứ biệt tướng, được nhận thức thông qua các căn nghiệp, nó không có bản chất. Giống như người ngủ chiêm bao, giấc mơ không có bản chất, không tồn tại cũng như không biểu hiện được điều gì, không được sản sinh từ bản chất. Điều này có nghĩa rằng, không thể truy tìm bản chất thông qua hiện tượng, giống như người ta không thể đem về một cái ngai vàng trong giấc mơ để sử dụng, xem nó làm bằng thứ gì, cũng như làm cơ sở đi tìm nguồn gốc.

Như vậy, Phật giáo mô tả bản chất hay thiệt tướng sự vật như thế nào ???
Kinh Hoa Nghiêm: “Thiệt Tướng vô tướng, diệc vô bất tướng, tướng nhi vô tướng, danh vi thiệt tướng”, có nghĩa rằng, thiệt tướng không có tướng, cũng chẳng phải không có tướng, tướng mà không có tướng, gọi là thiệt tướng. Định nghĩa này muốn nói, bản chất của các pháp không có tướng bản chất, nhưng chẳng phải không có tướng (tự tĩnh lặng), có tướng tĩnh lặng mà không có tướng bản chất, gọi là thiệt tướng…(Lý Tứ)

Qua lời chỉ dạy của Thầy đã giúp con mở rõ tầm nhìn, người tu hành không thể chuyển được “tận gốc bản chất của nó” bởi Thiệt Tướng vô tướng, thì thường hằng bất biến… bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh… bất di bất dịch… không thể dùng tri thức đến được!!! Do vậy chỉ có thể thông qua việc “thay đổi nhận thức” giúp người tu hành chuyển “trên hiện tượng nhận biết” của người đó.

Để làm sáng tỏ về các công đoạn chuyển kho… ta lấy ví dụ như sau:
Mặt trời dụ cho gốc bản chất; đám mây che dụ cho hiện tượng;. Bản chất mặt trời chẳng có bất kỳ mối liên hệ nào với đám mây. Mặt trời, đám mây là hai phạm trù riêng biệt. Đám mây chẳng có biểu hiện bản chất gì của mặt trời!!!

Nhưng đối với người tu hành, khi chưa giác ngộ thì đám mây (hiện tượng) làm cho việc nhìn mặt trời (bản chất) bị sai lệch, gọi là mê vì thế mà cho rằng giữa chúng có mối liên hệ bản chất hiện tượng.

Tu hành là việc làm điều chỉnh thay đổi nhận thức sai lệch, để nhận ra rằng bản chất như mặt trời là thường, đám mây như hiện tượng là vô thường, có mây hay không có mây bay, không làm người này hiểu sai lệch về bản chất mặt trời gọi là giác ngộ.

Nhờ giác ngộ mà người tu hành nhận ra rằng cái gọi là “hàm tàng thức” cũng như lúc mặt trời có mây che; “bạch tịnh thức” ví như nhận ra mặt trời chẳng liên quan gì đến mây và phát hiện được các tính chất vốn có của mặt trời như sức nóng, chiếu sáng…vv…thì ngay đó phát hiện ra có “Như Lai tàng tâm”. Như vậy, cái gọi là chuyển chỉ có thể chuyển “trên hiện tượng nhận biết” của người đó mà thôi.

Viết đến đây, con bỗng dưng nhớ bài “KHẨU QUYẾT CÙ GIA ĐỆ NHỊ ĐAO” thầy trao… vào cuối năm 2011.
“Như mây bay trên trời
Không đẹp cũng không xấu
Người có trí hãy tìm
Cái đẹp, trong cái đẹp.
Vì lợi ích muôn loài
Vì an vui tứ chúng
Vì sanh tử chẳng thật
Nên mây cũng không thật.
Không thật nhưng có vui
Thường cho nhiều lợi ích
Nơi không thật thành thật
Cái người trí cần tìm” !!!

Con xin đảnh lễ Thầy ba lễ!!!
Con, Lý Thái Đăng

2. Bài viết của Lý Ngọc Hỷ

Thầy kính.
Con xin thành tâm đảnh lễ Thầy 3 lễ!!!
Con xin đảnh lễ HĐTM Lý Gia 3 lễ!!!

Con xin trả lời các câu hỏi của TCTT – 03/2020 như sau:

Câu hỏi số1: Sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí”… Người tu hành có thể chuyển thẳng “tám thức” đến “đại viên cảnh trí” mà không cần thông qua việc chuyển “thức thứ sáu” và “thức thứ bảy” có được hay không??? Vì sao được??? Vì sao không??? Đề nghị giải thích và đưa ra ví dụ cụ thể???

Trả lời:
Sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí”… Người tu hành không thể chuyển thẳng “tám thức” đến “đại viên cảnh trí” mà không cần thông qua việc chuyển “thức thứ sáu” và “thức thứ bảy” được. Vì:

Thức là sự nhận biết. Theo Phật đạo, cái nhận biết của hữu tình biểu hiện qua tám thức, đó là:
– Năm thức đầu (Tiền ngũ thức, cái biết thông qua 5 căn thân) bao gồm: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức.
– Thức thứ sáu (Ý Thức): Sự nhận biết thông qua ý căn.
– Thức thứ bảy (Mạt Na thức): Sự nhận biết từ sự chắc lọc, chấp chặt thông tin được cho là chân lý (theo quan điểm cá nhân) được lấy ra từ kho tri kiến là A lại da thức (thức thứ tám)

Trong tám thức, ý thức làm chủ, nó sai sử 7 thức kia theo thấy biết mê mờ của mình nên tạo nghiệp.

Năm căn thân bổn lai tự thanh tịnh, không tánh. Khi thức chạy vào năm căn thân, thức chỉ đạo năm căn thân, tiếp cận năm ngoại trần theo chủ ý điên đảo của mình gọi là vô minh xúc, làm khởi sanh phân biệt, đẹp xấu, hơn thua, phải trái… sinh tâm buồn vui, thương ghét… Phật dạy: “Người trụ nơi phân biệt. Làm hư thanh tịnh nhãn. Lại thêm lớn ngu si. Người này không thấy Phật”.

Tiền ngũ thức chỉ là công cụ hoạt động dưới sự chỉ đạo của ý thức, khi “Tiền ngũ thức” chuyển thành “Thành sở tác trí”, năm căn được trả về bản nguyên tự thanh tịnh của nó. Khi đối duyên xúc cảnh, năm căn thân sáng suốt không loạn động gọi là minh xúc. Để mô tả điều này Kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật dạy “Trả cái thấy về cho cái thấy, trả cái nghe về cho cái nghe…”

Trong tám thức, thức thứ sáu (ý thức) đóng vai trò chủ đạo, lại được sự hỗ trợ đắc lực của thức thứ bảy (mạt na thức) hai thức này chưa chuyển thành trí, nên người tu hành sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí”… Không thể chuyển thẳng “tám thức” đến “đại viên cảnh trí” được.

Câu hỏi số 2: Khi ta chuyển thức thứ sáu (ý thức) thành “diệu quan sát trí” thì thức thứ bảy (mạt na thức) sẽ tự động chuyển theo, thành “bình đẳng tánh trí”… Hay ta phải tuần tự theo thứ lớp mà chuyển hai thứ thức đó??? Vì sao hai thức ấy tự động chuyển, hay ta phải tuần tự chuyển??? Đề nghị giải thích cụ thể và thuyết phục??? Nếu có ví dụ càng tốt!!!

Trả lời:
Để làm rõ vấn đề này, ta xem xét chức năng của ý thức, chức năng của mạt na thức và mối quan hệ giữa hai thức này.

Chức năng của ý thức là nghĩ suy, phân biệt, thị phi. Khi năm căn thân xúc đối năm trần cảnh, ý thức sai sử năm thân căn thấy biết theo sự điên đảo của mình, làm khởi lên phân biệt, đúng sai, phải trái, hơn thua…

Chức năng của mạt na thức là chấp chặt các thông tin lấy trong a lại gia thức, đưa ra suy lường, toan tính, bảo vệ cái mình cho là đúng, từ đó sinh ngã, sinh tâm, sinh pháp…..

Căn cứ vào chức năng của ý thức và mạt na thức, ta thấy hai thức này có mối quan hệ hỗ trợ cho nhau, bên này có thì bên kia có. Vì thế khi thức thứ sáu (ý thức) chuyển thành “diệu quan sát trí”, lúc này trí thay thế cho thức. Trí thấy biết theo trực nhận, thấu suốt bản chất của vấn đề nên định sanh, tưởng uẩn tịch diệt. Mạt na thức bây giờ không có cơ sở để chấp chặt đấu tranh, từ đó ngã tịch diệt theo, nên tâm không sanh, pháp không sanh, thức thứ bảy (mạt na thức) sẽ tự động chuyển theo, thành “bình đẳng tánh trí”.

Câu hỏi số 3: Khi tám thức chuyển thành bốn trí…Thức thứ chín là “lưu chú thức” có chuyển theo hay không??? Thức thứ chín đóng vai trò gì trong sinh hoạt tâm thức của một hữu tình??? Xin cho ví dụ cụ thể, để minh hoạ vai trò của thức thứ chín trong sinh hoạt tâm thức???

Trả lời:
Khi tám thức chuyển thành bốn trí…Thức thứ chín là “lưu chú thức” không chuyển theo. Lưu chú thức là thức phụ, nó không có chức năng làm cho hữu tình mê hay giác, nó cũng không bị ảnh hưởng bởi mê hay ngộ. Nhiệm vụ của lưu chú là đem những thông tin từ sáu thức cất vào A lại da thức, khi cần nó đem ra cho ý hoặc mạt na sử dụng. Vì thế trong kinh dạy “Thức diệt chứ lưu chú không diệt”. Khi giác ngộ lưu chú vẫn âm thầm làm đúng nhiệm vụ của mình, cất hoặc lấy thông tin ra cho trí sử dụng. Phật dạy: “Tướng sanh trụ diệt và lưu chú sanh trụ diệt, không thể suy lường biết được…”

Ví dụ: Lưu chú như người làm thủ quỹ của một công ty, có nhiệm vụ giữ, thu và chi tiền theo lệnh của ông chủ, không có quyền quyết định việc lời hay lỗ của công ty, có tiền hay không có.

Câu hỏi số 4: Ba giai đoạn chuyển biến của “hàm tàng thức” đến “bạch tịnh thức” và cuối cùng là “Như Lai tàng tâm” từ một phàm phu vô văn đến giác ngộ rốt ráo… Sau khi đã chuyển, ba thứ trên được chuyển “tận gốc bản chất của nó” hay chỉ chuyển “trên hiện tượng nhận biết” (của người đó) thông qua việc “thay đổi nhận thức”??? Đề nghị giải thích vì sao ba thứ ấy chuyển tận bản chất hay chỉ chuyển trên hiện tượng??? Cho ví dụ minh hoạ!!!???

Trả lời:
Thức thứ tám là A lại da thức, hay còn gọi là Hàm tàng thức, nó như một cái kho lưu giữ lại mọi thứ có được, qua học tập và tiếp xúc với môi trường xung quanh.

– Một phàm phu vô văn, khi đối duyên xúc cảnh, mọi thấy nghe của các căn thân đều bị thức mê sai sử, thức đem những điều học được, cất vào Hàm tàng thức hay còn gọi là A lại da thức. Khi cần sử dụng, đem ra so sánh, phân biệt làm ngã sanh, pháp sanh… tâm thức luôn loạn động còn gọi là đa tâm, tâm này sáng thương, chiều ghét, nay đúng, mai sai, thay đổi không ngừng, thấy nghe theo nghiệp.

– Khi phàm phu vô văn nhàm chán ba cõi, bắt đầu tu học, được thiện tri thức hướng dẫn, giác ngộ thay đổi nhận thức, biết cách làm chủ thân tâm. Khi đối duyên xúc cảnh ra khỏi vô minh, trở thành minh xúc, vẫn thấy nghe hay biết nhưng thanh tịnh sáng suốt, không làm phiền não khổ phát sinh. Nhờ giác ngộ thay đổi nhận thức, thấy các pháp không tánh, không tướng. Những điều học được và những điều trước đây cất trong kho A lại da không mất đi mà chuyển thành Bạch tịnh thức.

– Thuận theo dòng giác, người tu hành cảm nhận được sự an lạc trong đời sống ngày càng nhiều cho đến khi thường hằng. Vì thương tưởng chúng sanh, vị này Phát Bồ đề tâm muốn giúp những người hữu duyên cũng có được đời sống như mình, tìm cầu Thiện tri thức học trí tuệ để độ chúng sanh. Trong quá trình học trí tuệ, nhận thức thay đổi liên tục, hiểu được thế nào là Tam muội môn, Giải thoát môn chợt nhận ra những điều học được trước đây chứa trong A lại da, chính là Như Lai tàng tâm vô giá, dùng cứu chúng sanh ra khỏi phiền não khổ.

Qua những phân tích trên, ta thấy ba giai đoạn chuyển biến của “Hàm tàng thức” đến “Bạch tịnh thức” và cuối cùng là “Như Lai tàng tâm” chỉ chuyển “trên hiện tượng nhận biết” (của người đó) thông qua việc “thay đổi nhận thức”, khi thấy rõ bản chất của các pháp chính là không pháp.

Việc chuyển Hàm tàng thức đến Bạch tịnh thức và cuối cùng trở thành Như Lai tàng tâm, giống như từ nước đục do nhiễm ô chuyển thành nước trong không còn cáu bẩn, và cuối cùng gia thêm dược liệu để biến thành diệu dược. Chúng chỉ có thể chuyển những gì thuộc về hiện tượng, còn bản chất của nước không thể chuyển được. Cũng thế, người tu hành chuyển thức thành trí là chuyển từ hiện tượng mê sang ngộ, chứ không thể chuyển bản chất các pháp. Vả lại, cái được gọi là bản chất (thiệt tướng) thì không thể chuyển.

Trên đây là những hiểu biết của con, còn nhiều thiếu sót xin Thầy chỉ dạy thêm.
Con, Lý Ngọc Hỷ

3. Bài viết của Lý Phạm Thùy

Con kính chào thầy ạ!
Con xin tham gia trả lời câu hỏi trò chơi trí tuệ kì này ạ.

1) Sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí”… Người tu hành có thể chuyển thẳng “tám thức” đến “đại viên cảnh trí” mà không cần thông qua việc chuyển “thức thứ sáu” và “thức thứ bảy” có được hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Đề nghị giải thích và đưa ra ví dụ cụ thể ???

Trả lời:
Sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí”… Người tu hành không thể chuyển thẳng “tám thức” đến “đại viên cảnh trí” mà cần thông qua việc chuyển “thức thứ sáu” và “thức thứ bảy”.

Theo con hiểu về tiền ngũ thức là khi ý thức đi vào năm căn thân là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân sẽ cho ra năm nhận thức về sắc là đẹp hay xấu, về âm thanh là hay hay dở, về mùi hương là thơm hay không thơm, về cảm thọ trên thân là nóng hay lạnh…vậy chính “THỨC” đã làm nhiễm ô sự thấy, sự nghe, sự ngửi, sự nếm, sự xúc chạm này bằng thức phân biệt, thức sai sử, thức vọng động, vì rằng bản nhiên các sự nhìn, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm vốn thanh tịnh, không tánh, không tướng, không như này, không như khác… Nếu có này, có khác lập tức có thức ở đó chiếm giữ khiến ta mê muội, chấp trước, lầm lận…Khi ta nhìn một người nếu không có thức phân biệt chen vào sẽ không thấy người đẹp, xấu, hay khi ta nghe một bài hát sẽ không thấy hay dở, để rồi sau đó chọn lựa những cái tốt, đẹp, hay, ngon, những sự vật, sự việc phù hợp với sự yêu thích của ta, rồi bỏ đi hay tránh xa những sự vật, sự việc khi ta xúc chạm mà phân biệt trở thành xấu, dở, đắng, chát, nóng, lạnh…như thầy đã dạy rằng sự vật, sự việc bản chất thanh tịnh, không tánh, không tướng, khi căn, trần, thức hoà hợp mà ta thấy tánh chỉ là do ta thấy hư vọng tánh mà thôi.

Sau khi chuyển tiền ngũ thức thành “thành sở tác trí”, chính là đem ý căn ra khỏi năm căn thân, trả các căn trở về bản nguyên của nó, tức là tánh thấy tánh nghe tánh hay tánh biết, nhưng không còn phân biệt để phát sinh các thứ lậu hoặc, phiền não.

Vậy nguyên nhân chính khiến người tu hành chưa thành tựu đại viên cảnh trí là do “THỨC” chứ không phải do các căn nhìn,nghe, ngửi, nếm hay xúc chạm với các trần. Cũng từ một thức này khi vào các căn trở thành các thức phân biệt gọi là ý thức hay thức thứ sáu, khi thức thực hiện chức năng chọn lựa để sinh ngã còn gọi là thức thứ bảy – Mạt Nạ Thức, khi thực hiện chức năng tích chứa những gì đã huân tập, hiểu biết phân biệt, nhiễm ô còn gọi là A Lại Da Thức hay thức thứ tám.

Vậy khi chuyển một thức thành trí để có cái “Đại Viên Cảnh trí” tức là cái trí sáng suốt trước mọi sự vật, sự việc, lúc này tâm như tấm gương sáng, sự vật tới thì thấy bóng, thấy hình, sự việc đi thì không có cái gì trong ấy cả, tất cả các thức đều được chuyển đổi, bao gồm cả thức thứ sáu và thức thứ bảy. Khi đưa ý căn ra khỏi các căn chính là để cho thức thứ sáu không còn sai sử khiến các căn trở nên phân biệt lầm lận trần cảnh, sau đó là không để thức thứ bảy có thể ung dung mà lựa chọn cái này nó thích, cái kia nó không thích để sinh cái ngã hư dối nữa.

Điều này khiến con hình dung ra trong các bộ phim viễn tưởng, khi con quái vật có phép thần thông biến hoá ra nhiều thân, mỗi thân cầm một loại vũ khí khua lên khua xuống đe doạ vị hiệp sĩ, thì chỉ cần vị hiệp sĩ tìm ra được thân nào là thân thật và trực tiếp tấn công vào đó thì quái vật sẽ bị tiêu diệt và các ảo ảnh của nó cũng tự nhiên biến mất…con quái vật chỉ cho thức phân biệt, nhiễm ô, từ một con quái biến ra các ảnh tượng 8 con quái khác nhưng tất cả chỉ đồng là một con.

2) Khi ta chuyển thức thứ sáu (ý thức) thành “diệu quan sát trí” thì thức thứ bảy (mạt na thức) sẽ tự động chuyển theo, thành “bình đẳng tánh trí”… Hay ta phải tuần tự theo thứ lớp mà chuyển hai thứ thức đó ??? Vì sao hai thức ấy tự động chuyển, hay ta phải tuần tự chuyển ??? Đề nghị giải thích cụ thể và thuyết phục ??? Nếu có ví dụ càng tốt !!!

Trả lời:
Khi chuyển thức thứ sáu thành diệu quan sát trí thì thức thứ bảy sẽ tự động chuyển theo bởi vì khi đó ý căn sẽ thực hiện chức năng lặng lẽ quan sát các hình ảnh, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm nhận biết từ các căn, nhưng không hề kết luận hay phân biệt hình ảnh này là đẹp, hình này là xấu, âm thanh này là hay, âm thanh này là dở nữa…tức ý thức này sáng suốt không còn dựa vào tình cảm hay hiện tượng của sự vật sự việc, trong tâm không còn phân biệt như vậy, tức tính chất nhị nguyên không còn thì thức thứ bảy đâu còn cần phải thực hiện chức năng lựa chọn của nó nữa, bởi vì các pháp đã bình đẳng không còn cần chọn này bỏ kia để sinh ra cái ngã hư dối.

Con ví dụ như anh học trò giải bài toán kia theo hai cách A và B nếu trước khi có nhận xét từ thầy giáo là cách A hay hơn cách B thì anh học trò chưa phân biệt và cũng chưa lựa chọn cách nào vì anh thấy giải bài toán theo cách nào cũng được, hai cách giải đều bình đẳng vì cũng đưa đến đáp án. Vậy là từ sự phân biệt sẽ dẫn đến sự lựa chọn, rồi chấp vào sự chọn lựa này mà ngã sinh, ai cãi cách giải đó sai là hùng hổ cãi lại…điều này giống như phản ứng dây chuyền đây sinh nên kia sinh, đây biến đổi kia cũng biến đổi, có đây có kia nhưng cùng là một thức.

3) Khi tám thức chuyển thành bốn trí…Thức thứ chín là “lưu chú thức” có chuyển theo hay không ??? Thức thứ chín đóng vai trò gì trong sinh hoạt tâm thức của một hữu tình ??? Xin cho ví dụ cụ thể, để minh hoạ vai trò của thức thứ chín trong sinh hoạt tâm thức ???

Trả lời:
Lưu Chú Thức hay thức thứ chín đóng vai trò mang những gì huân tập từ Hàm Tàng Thức tới Mạt Na Thức để Mạt Na thức dựa vào những gì đã huân tập cộng với với thức phân biệt từ ý thức mà kết luận về các trần và sau đó lại mang những điều kết luận phân biệt đó để cất giữ vào Hàm Tàng Thức…

Khi con nghe tới chức năng mà thầy nói về Lưu Chú Thức thì dường như thức này đang vô can trong việc tạo ra một cái thức nhiễm ô, công việc của nó chỉ là vận chuyển, lấy cái cần lấy đem đến cho thức khác giống như công việc của một người thủ thư trong thư viện, khi một anh học trò nói cần mượn cuốn sách A, người thủ thư tra tài liệu xem có sách A hay không rồi vào kho lấy cuốn sách A giao cho người học trò, còn việc đọc sách hay không, đọc có hiểu hay không, hay sử dụng cuốn sách làm gì của anh học trò thì người thủ thư không hề biết.

Như vậy khi nói tám thức chuyển thành bốn trí chứ không nói chín thức chuyển thành năm trí, điều này khiến cho con nghĩ rằng thức thứ chín này vẫn tiếp tục thực hiện chức năng vận chuyển của nó, nhưng khác chăng là cái thứ nó vận chuyển đã không còn là những thức nhiễm ô mà có thể thuần là trí tuệ, các pháp môn giải thoát, mang các pháp lành ban rải khắp thế gian.

4) Ba giai đoạn chuyển biến của “hàm tàng thức” đến “bạch tịnh thức” và cuối cùng là “Như Lai tàng tâm” từ một phàm phu vô văn đến giác ngộ rốt ráo… Sau khi đã chuyển, ba thứ trên được chuyển “tận gốc bản chất của nó” hay chỉ chuyển “trên hiện tượng nhận biết” (của người đó) thông qua việc “thay đổi nhận thức” ??? Để nghị giải thích vì sao ba thứ ấy chuyển tận bản chất hay chỉ chuyển trên hiện tượng ??? Cho ví dụ minh hoạ !!!???

Trả lời:
Ba giai đoạn chuyển biến của hàm tàng thức đến bạch tịnh thức và cuối cùng là Như Lai Tàng Tâm để từ một phàm phu vô văn luôn bị thức sai sử, loạn động, tích chứa âu lo phiền não đến một vị giác ngộ rốt ráo là một quá trình chuyển đổi “trên hiện tượng nhận biết” thông qua việc “thay đổi nhận thức” của người đó.

Việc thay đổi dựa trên “hiện tượng nhận biết” của người đó vì rằng ta chỉ có thể thay đổi những điều thuộc về hiện tượng, tức cái không thật, không thuộc về bản chất của nó. Còn những gì thuộc về bản chất sâu xa bên trong thì không thể. Giống như tánh nóng hay lạnh của nước không thuộc về bản chất của nước, chỉ khi gặp duyên nóng khi ta đun nước lên, hay duyên lạnh là khi cho nước vào tủ lạnh thì ta mới thấy nước mang tánh nóng hay mang tánh lạnh. Vì rằng nóng hay lạnh không thuộc về bản chất của nước, nếu như lạnh là bản chất của nước thì khi ở không độ c nước chuyển thành đá, vậy thì ở nhiệt độ cao hơn như 60-70 độ thì nước đá đã không bị tan ra, nóng lên, rồi ở nhiệt độ cao hơn 100 độ, nước đã không sôi và lại có tánh nóng.

Một ví dụ khác, rằng nếu mê là bản chất của chúng sanh thì không thể nào có thể giác ngộ, giải thoát được, nhưng lịch sử Phật giáo đã cho thấy rất nhiều vị giác ngộ chứng giải thoát, dứt hết mê muội, ngũ dục thế gian, chứng diệt đế rồi hoàn thành đạo đế…
Điều này chứng minh cho việc mê chỉ là hiện tượng khi không thấu suốt vấn đề, và cũng như vậy, quá trình chuyển tám thức thành bốn trí trong đó có thức thứ tám tức A lại da thức hay còn gọi là hàm tàng thức thành trí cũng là một sự chuyển đổi hiện tượng dựa trên sự thay đổi nhận thức từ sơ ngộ đến rốt ráo giác ngộ hoàn toàn dứt ngu – mê – lầm.

Ở các câu trả lời trước ta đã thấy thức thứ 6 là thức phân biệt và thức thứ 7 là thức chọn lựa mang tính quyết định và sai sử, là nguyên nhân dẫn đến nhiễm ô và sai sử tiền ngũ thức, sau khi giác ngộ và quá trình chuyển đổi ý thức thành diệu quan sát trí và Mạt nạ thức thành Bình đẳng tánh trí, vậy thì đối với thức thứ tám – cái kho cất giữ ấy sẽ chuyển đổi như thế nào?

Ba giai đoạn chuyển biến của hàm tàng thức đến bạch tịnh thức và cuối cùng là Như Lai Tàng Tâm ta cần có sự hiểu biết tường tận, mới mong thấu suốt quá trình chuyển đổi này. Ở đây khi nói giai đoạn chuyển từ hàm tàng thức thành bạch tịnh thức tức là phải hiểu những gì đã tích chứa ở hàm tàng thức và những gì sẽ được tích chứa ở bạch tịnh thức?

Ở hàm tàng thức, khi thức nhiễm ô đi vào các căn làm nhiệm vụ phân biệt các trần cảnh là tốt xấu, hay dở…và được Mạt Na Thức chọn lựa từ các phân biệt rồi giữ lại những gì được cho là tốt khi so sánh với những điều đã huân tập từ nhiều đời nhiều kiếp trước, sau đó kết quả của quá trình lựa chọn, nhận xét, phân biệt này là các tri thức nhiễm ô, tri thức có chọn lựa, tri thức được phủ lên mình một lớp áo bụi bặm của mê, để huân tập vào hàm tàng thức.

Quá trình chuyển đổi từ hàm tàng thức thành bạch tịnh thức là một quá trình chuyển đổi các sản phẩm của hàm tàng thức, chỉ giữ lại các tri thức cần thiết trong đời sống hàng ngày, ngoài ra, các tri thức nhiễm ô sẽ được lọc sạch sẽ, hết nhiễm ô, hết phân biệt, như thầy đã nói rằng các thứ này đem bán đồng nát ve chai thì số tiền bán được không thể nghĩ bàn vì số lượng tích lũy qua muôn đời muôn kiếp quá nhiều, chẳng thể đo lường…

Sau khi hoàn thành quá trình dọn dẹp các thứ nhiễm ô trong hàm tàng thức thì cái kho bây giờ tinh sạch, rộng rãi, có thể tha hồ mua thêm về tích chứa, giai đoạn này gọi là hoàn thành căn bản trí. Vị tu hành tiếp tục học tập các pháp môn, phương tiện gọi là học nhất thiết trí, khi sự học này viên mãn thì các thứ tích chứa trong Bạch tịnh thức sẽ thuần là trí tuệ vô lậu, lúc này bạch tịnh thức có tên là Như lai tàng tâm, như vậy cùng một cái kho mà vật tích chứa ở đó đã khác.

Thầy ơi nghĩ tới đây con thật sự xúc động vì đã bao nhiêu lần thầy nhắc nhở về việc nên hiểu rốt ráo vấn đề thì mới mong giải quyết thấu đáo sự việc, giống như người đi chợ muốn mua rau muống mà chỉ biết đến danh tự của nó mà không biết về hình dáng rau muống, màu sắc nó như thế nào thì chỉ đem về thứ rau khác, không giống với mục đích ban đầu. Và cũng vậy nếu chỉ biết đến danh tự vấn đề rồi không đem tâm nghĩ nhớ, suy luận, không tinh tấn ngày đêm hòng tìm cách giải quyết thì làm sao đưa đến giác ngộ, giải thoát rốt ráo.

Con cũng đã hiểu điều thầy nói, giác ngộ là quá trình chuyển đổi ý thức từ mê thành giác, cứ chuyển đổi dần dần như thế đến rốt ráo gọi là ngộ. Và sau quá trình chuyển đổi này cũng một chúng sinh này thôi, khi mê thì là chúng sinh, thật ra không có chúng sinh chỉ tạm gọi là chúng sinh… Và khi hết mê, thấu suốt vấn đề thì lại trở thành thánh, phàm hay thánh chỉ do mê hay ngộ mà thôi…thật tuyệt vời quá thầy ơi.

Con xin ngàn lần cảm tạ ân đức của thầy đã khai phá trí tuệ tăm tối của con mà gieo vào đó những hạt mầm trí tuệ của thầy, để giờ đây con có thể biết mình đang thu nhặt từng quả lành, ăn vào tới đâu mát tới đó, con sẽ tiếp tục chăm sóc những hạt giống này để cho chúng lớn lên, toả bóng mát và ra trái ngọt thầy ơi…
Con, Lý Phạm Thùy

4. Bài viết của Lý Diệu Tâm

Thưa thầy, con xin trả lời câu hỏi trong Trò chơi Trí tuệ 03/2020:
1. Câu hỏi: Sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí”… Người tu hành có thể chuyển thẳng “tám thức” đến “đại viên cảnh trí” mà không cần thông qua việc chuyển “thức thứ sáu” và “thức thứ bảy” có được hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Đề nghị giải thích và đưa ra ví dụ cụ thể ???

Trả lời:
Thưa thầy, theo con sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí”, người tu hành KHÔNG THỂ CHUYỂN THẲNG “tám thức” đến “đại viên cảnh trí” mà không cần thông qua việc chuyển “thức thứ sáu” và “thức thứ bảy”.
�Bởi vì “tiền ngũ thức” là đại diện cho sắc uẩn, khi “thành sở tác trí” thay thế “tiền ngũ thức” thì năm căn được tự do, không bị sai sử bởi nghiệp thức, sắc uẩn khi đó trở thành sắc giải thoát, khi đó người tu hành mới giải quyết được phần THÂN.
�Muốn đến được “đại viên cảnh trí” tức là tâm thức hoàn toàn vắng lặng, thì nhất định phải giải quyết cả phần THỌ, TÂM, PHÁP. Để giải quyết 3 món này chỉ có thể khi Ý thức được chuyển thành Diệu quan sát trí, tức là ý căn không còn bị che chướng bởi ý thức mà sinh tâm, nhờ đó mà Mạt na thức không còn phân biệt hơn thua (tâm vô ngã, pháp vô ngã).
�Ví dụ, sau khi thực hành yểm ly thân, người tu hành không còn bị cuốn vào những gì thấy nghe ở bên ngoài, không tham gia bàn tán, khen chê, không đòi hỏi thiệt hơn khi sự việc xảy đến với mình. Tuy nhiên, vì ý thức vẫn còn hoạt động và duyên vào ý căn nên thọ, tưởng, hành vẫn bị điều khiển bởi nghiệp. Mặc dù không có sự tạo tác nào ở bên ngoài nhưng bên trong vẫn có thể sinh nội pháp gây ra phiền não. Những nhớ nghĩ này khiến cho người tu hành chưa thực sự cảm nhận được sự thanh tịnh trong tâm trí.

2. Câu hỏi: Khi ta chuyển thức thứ sáu (ý thức) thành “diệu quan sát trí” thì thức thứ bảy (mạt na thức) sẽ tự động chuyển theo, thành “bình đẳng tánh trí”…Hay ta phải tuần tự theo thứ lớp mà chuyển hai thứ thức đó ??? Vì sao hai thức ấy tự động chuyển, hay ta phải tuần tự chuyển ??? Đề nghị giải thích cụ thể và thuyết phục ??? Nếu có ví dụ càng tốt !!!

Trả lời:
Thưa thầy, theo con khi ta chuyển thức thứ sáu (ý thức) thành “diệu quan sát trí” thì thức thứ bảy (mạt na thức) SẼ TỰ ĐỘNG CHUYỂN THEO, thành “bình đẳng tánh trí”.
�Thực chất, nói là 8 thức nhưng thực ra chỉ là một thức mà dịch chuyển qua các trạng thái khác nhau. Khi thức duyên vào 6 căn (lục nhập) thì 6 căn bị che chướng, khi căn đối trần, thức này có sẵn sự phân biệt trở thành “Mạt na thức” điều khiển mọi hành vi của hữu tình. Hành vi này hàm chứa sự phân biệt, dựa trên ngã và ngã sở của hữu tình. Sau quá trình chuyển “Tiền ngũ thức” thành “Thành sở tác trí” và “Ý thức” thành “Diệu quan sát trí”, 6 căn được giải thoát, thức tồn tại độc lập với 6 căn, không còn duyên vào căn nào cả. Vì thức độc lập nên khi căn xúc trần, các căn hoàn toàn thanh tịnh, “Mạt na thức” lúc này không còn chỗ nào để chấp nên ngã không thể sinh. “Mạt na thức” lúc này trở về bản chất nguyên sơ của nó, không còn nhị nguyên nên gọi là Bình đẳng tánh trí.

Trường hợp này ví dụ như một người A có định kiến với một người B (ý thức), trong mọi trường hợp đều đánh giá người B là kém cỏi, không hiểu biết,… nên sinh ra thái độ coi khinh, không đồng tình với bất kỳ ý kiến nào của người B (mạt na thức hoạt động). Trong trường hợp người A tu tập, giải thoát được ý căn khỏi ý thức, tức là hết những định kiến, đánh giá, phân biệt về người B (diệu quan sát trí) thì thái độ coi thường sẽ tự giác biến mất, mỗi ý kiến của người B sẽ được người A xem xét một cách công bằng (bình đẳng tánh trí).

3. Câu hỏi: Khi tám thức chuyển thành bốn trí…Thức thứ chín là “lưu chú thức” có chuyển theo hay không ??? Thức thứ chín đóng vai trò gì trong sinh hoạt tâm thức của một hữu tình ??? Xin cho ví dụ cụ thể, để minh hoạ vai trò của thức thứ chín trong sinh hoạt tâm thức ???

Trả lời:
Thưa thầy, theo con khi tám thức chuyển thành bốn trí…Thức thứ chín là “lưu chú thức” KHÔNG CHUYỂN THEO. Bởi vì “lưu chú thức” chỉ đóng vai trò vận chuyển từ A lại da thức đến Mạt Na Thức, không bị ảnh hưởng bởi “mê” hay “ngộ”, cho nên khi hữu tình chuyển đổi trạng thái thì không ảnh hưởng gì đến “lưu chú thức”.

Trong sinh hoạt tâm thức của một hữu tình, “Lưu chú thức” có nhiệm vụ ghi nhận và đem các thông tin từ sáu thức cất vào A lại da, khi cần nó đem ra cho “Mạt na thức” sử dụng. Chính vì vai trò là người vận chuyển này nên khi tâm thức của một hữu tình dù là “mê” hay “giác” thì “Lưu chú thức” vẫn làm công việc của mình.

Tuy nhiên, từ những trải nghiệm của chính bản thân, con cảm nhận khi một chúng sinh chưa có sự tu tập, “lưu chú thức” thường “manh động” và đi theo thói quen, theo những con đường có sẵn. Ví dụ như khi gặp một người quen nào đó, ta thường hay dựa vào những ấn tượng tốt – xấu đã có sẵn để đối đãi với người đó. Nhưng khi có sự tu tập trong tâm trí, mặc dù “Lưu chú thức” vẫn là phương tiện vận chuyển thông tin nhưng có sự chọn lọc, chậm rãi và điềm tĩnh hơn. Ví dụ như cũng gặp người quen đó nhưng người tu hành bắt đầu có sự nhận định sáng suốt hơn, không theo những lối mòn cũ.

4. Câu hỏi: Ba giai đoạn chuyển biến của “hàm tàng thức” đến “bạch tịnh thức” và cuối cùng là “Như Lai tàng tâm” từ một phàm phu vô văn đến giác ngộ rốt ráo… Sau khi đã chuyển, ba thứ trên được chuyển “tận gốc bản chất của nó” hay chỉ chuyển “trên hiện tượng nhận biết” (của người đó) thông qua việc “thay đổi nhận thức” ??? Để nghị giải thích vì sao ba thứ ấy chuyển tận bản chất hay chỉ chuyển trên hiện tượng ??? Cho ví dụ minh hoạ !!!???

Trả lời:
Thưa thầy, theo con giai đoạn chuyển biến từ “hàm tàng thức” đến “bạch tịnh thức” và đến “Như Lai tàng tâm” là sự chuyển biến về mặt HIỆN TƯỢNG chứ không phải là chuyển biến về bản chất.
Về bản chất, cả 3 loại thức này đều là nơi chứa đựng thông tin giúp cho Mạt Na Thức sử dụng khi hành xử, dù có tên gọi khác nhau nhưng đều dùng chỉ cho 1 chức năng của thức này. Có thể coi A lại da thức là nơi chứa đựng những nguồn cơn để sinh tâm, trong các giai đoạn khác nhau từ phàm phu cho đến giác ngộ rốt ráo là sự lắng trong, làm sạch tâm này cũng là các giai đoạn làm sạch và sắp xếp lại các thông tin chứa trong A lại da thức.�
Ví dụ, với một hữu tình khi mê, “hàm tàng thức” chứa tất cả những gì phàm phu thu nhận từ thấy biết bao gồm cả tất cả những pháp thiện ác thế gian. Ở giai đoạn đoạn này, hàm tàng thức được ví dụ như một hồ nước bị nhiễm ô, không thể thể hiện đúng những gì soi chiếu qua nó.

Ở giai đoạn sơ ngộ, hữu tình đã có nhận thức về bản chất của các pháp, phân biệt được thông tin nào trong đó là hữu dụng, thông tin nào vô dụng, từ đó đối với thấy nghe, hữu tình biết sử dụng thông tin nào để nhìn rõ được bản chất của sự vật, sự việc, không còn bị che chướng bởi sự phân biệt, đánh giá chủ quan. Giai đoạn này “bạch tịnh thức” giống như chiếc gương soi, mọi sự vật sự việc qua chiếc gương đó hiện đúng bản chất, không bị che chắn bởi vô minh, khi sự việc qua đi, chiếc gương cũng trở lại chính nó chứ không còn ôm đồm, ghi nhớ gì về sự việc đó.

Ở giai đoạn giác ngộ rốt ráo, “Bạch tịnh thức” được trang bị thêm trí tuệ Bát Nhã, những hạt giống trí tuệ của Như Lai được lưu trong kho và mang ra sử dụng khi cần để cứu độ chúng sinh nên gọi là “Như lai tàng tâm”. Khi đó, vị Bồ Tát nương theo trí tuệ để thành tựu các pháp bất khả tư nghì, lấy công hạnh hóa độ làm chỗ tu hành. Thứ nước sạch trong ở bên trên bây giờ không chỉ được dùng cho mình mà còn được phân phát cho chúng sinh, giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi phiền não thế gian.
*****

Thưa thầy, lần đầu tiên con tham gia trả lời câu hỏi trong TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ, những kiến giải của con còn nặng về câu chữ, ví dụ còn thô biền, mong thầy và các huynh đệ chỉ ra cho con những chỗ được và chưa được để những lần sau con có thể đạt được tiến bộ ạ.
Đệ Tử, Lý Diệu Tâm

5. Bài viết của Lý Nhạn Ảnh 

KÍNH THẦY!!!
KÍNH HĐTM LÝ GIA!!!
Con xin trả lời TCTT 03-2020.
Câu hỏi 1/ Sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí”…người tu hành có thể chuyển thẳng “tám thức” đến “đại viên cảnh trí” mà không cần thông qua việc chuyển “thức thứ sáu” và “thức thú bảy” có được hay không??? Vì sao được??? vì sao không??? Đề nghị giải thích và đưa ra ví dụ cụ thể???

Trả Lời:
Sau khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí” người tu hành không thể chuyển thẳng “tám thức” đến đại viên cảnh trí” mà phải chuyển tiếp thức thứ sáu (ý thức) thành “diệu quan sát trí” thì công việc chuyển thức thành trí mới thành công.

Vì khi chuyển “tiền ngũ thức” thành “thành sở tác trí” là mới bước đầu hoàn thành công việc thấy nghe, tức là khi năm căn thân xúc đối năm trần cảnh không còn tâm chiếm hữu, không đem thấy nghe làm tâm mình ( thích hay không thích, buồn hay vui…)

Với người tu hành, phải biết rằng thức thứ sáu (ý thức) là thức có chức năng trùm khắp, quyết định sự thành bại trong công việc tu tập, mọi thứ vọng tưởng, phân biệt đúng sai, suy lường so đo, thị phi đó đây…cũng đều do bởi ý thức quyết định. Cho nên chưa chuyển “ý thức” thành “diệu quan sát trí” thì nguyên nhân sinh pháp, sinh tâm, sinh ngã vẫn còn.

Ta có thể ví dụ: Một người khiếm khuyết các căn như mắt tai mũi…tuy không hề ảnh hưởng bởi ngoại duyên thấy nghe nhưng trong lòng họ vẫn hơn thua, chấp nhứt, giận hờn…

Câu hỏi 2/ Khi ta chuyển thức thứ sáu (ý thức) thành “diệu quan sát trí” thì thức thứ bảy “mạt na thức” sẽ tự động chuyển theo, thành “bình đẳng tánh trí”. Hay phải tuần tự theo thứ lớp mà chuyển hai thức đó??? Vì sao hai thức ấy tự động chuyển, hay ta phải tuần tự chuyển??? Đề nghị giải thích cụ thể và thuyết phục??? Nếu có ví dụ càng tốt.

Trả lời:
Sau khi chuyển thức thứ sáu “ý thức” thành “diệu quan sát trí” thì thức thứ bảy “mạt na thức” sẽ tự động chuyển theo thành “bình đẳng tánh trí” và “a lại da thức” sẽ chuyển thành “đai viên cảnh trí”.

Vì nói tám thức là để phân chia chức năng, nhiệm vụ của từng giai đoạn của thấy nghe, của nghĩ suy, phân biệt, chấp nhứt…chứ tám hay chín thức cũng chỉ từ một cái biết. Vì thức chiếm dụng toàn bộ các căn, khi thức chạy vào năm căn sai sử các căn hướng đến đối tượng năm trần cảnh, ngay tức thì ý thức tiếp cận sự vật, sự việc phân biệt đúng sai, phải quấy, hơn thua, đẹp xấu…và sau cùng là những hiệu ứng giận hờn, thương ghét, tham sân hiện khởi.

Khi “ý thức” chuyển thành “diệu quan sát trí” thì ý căn bây giờ thuần tuý chỉ còn suy nghĩ, không còn phân biệt, thị phi, phải quấy…Đây là giác quan quan trọng nhất đối với một hữu tình, chỉ cần điều phục được căn này, các căn kia cũng được thuần hoá theo. Như trong kinh Phật có dạy “ý dẫn đầu các pháp” và Thầy cũng dạy “lặng lẽ quan sát không kết luận”. Những lời dạy cho ta biết rằng khi ý căn không bị sai sử bởi thức nghiệp thì mọi nguyên nhân sanh pháp được đoạn trừ. Khi ý đã thanh tịnh thì tâm cũng không động lay và ngã cũng không còn đất sống, tức “mạt na thức” chuyển thành “bình đẳng tánh trí” và “a lại da thức” thành “đại viên cảnh trí”

Ví dụ: Trên một bàn cờ tướng, bất kể các quân cờ xe pháo mã có còn hay không, nhưng khi nước cờ chiếu tướng đã thành công, thì các quân cờ sĩ, tượng không còn cơ hội đi tiếp. Quân xe pháo mã dụ cho “tiền ngũ thức”, quân tướng dụ cho “ý thức”, quân sĩ, tượng dụ cho “mạt na thức” và “a lại da thức”

Câu hỏi 3/ Khi tám thức chuyển thành bốn trí…thức thứ chín là “lưu chú thức” có chuyển theo hay không??? Thức thứ chín đóng vai trò gì trong sinh hoạt tâm thức của một hữu tình??? Xin cho ví dụ cụ thể để minh hoạ vai trò của thức thứ chín trong sinh hoạt tâm thức???

Trả lời:
Khi tám thức chuyển thành bốn trí…thức thú chín là lưu chú thức không chuyển theo, vì đây là thức phụ, không ảnh hưởng đến mê hay ngộ.

Khi thức chưa chuyển thành trí, lưu chú thức có chức năng đem các thông tin từ sáu thức ghi nhận được cất giữ vào “a lại gia thức”, khi cần lưu chú thức lấy tư liệu từ “a lai da thức” đem cho “ý thức” hoặc “mạt na thức” để suy lường và phán xét…Khi thức chuyển thành trí thì lưu chú vẫn âm thầm đem những thông tin từ thấy nghe, nhưng những thấy nghe, suy nghĩ, học tập không còn sự suy lường, cố chấp, đấu tranh…vào kho a lại da cất giữ, và khi cần thì lưu chú thức lấy tư liệu từ a lai gia (sau này sẽ thành Như Lai tàng tâm) đem ra để giúp người hoặc tư duy trong giai đoạn học trí tuệ. Trong kinh Phật cũng dạy: “thức diệt chứ lưu chú không diệt”

Ví du: Trong một trường học, các vị trong ban giám hiệu nhà trường có luân chuyển công việc hay không, cũng không ảnh hưởng đến công việc của nhân viên văn thư lưu trữ, vị này vẫn âm thâm lưu lại những hoạt động của nhà trường và chỉ thị của phòng giáo dục chỉ đạo.

Câu hỏi 4/ ba giai đoạn chuyển biến của “hàm tàng thức” đến “bạch tịnh thức” và cuối cùng là “Như Lai tàng tâm” từ một phàm phu vô văn đến giác ngộ rốt ráo…sau khi đã chuyển, ba thứ trên được chuyển “tận gốc bản chất của nó” hay chỉ chuyển “trên hiện tượng nhận biết” (của người đó) thông qua việc “thay đổi nhận thức”??? Đề nghị giải thích vì sao ba thứ ấy chuyển tận bản chất hay chỉ chuyển “trên hiện tượng”??? Cho ví dụ minh hoạ.

Trả lời:
Ba giai đoạn chuyển biến của “hàm tàng thức” đến bạch tịnh thức” và cuối cùng là “Như Lai tàng tâm” từ một phàm phu vô văn đến giác ngộ rốt ráo…sau khi chuyển, ba thứ trên chỉ chuyển “trên hiện tượng nhận biết” thông qua việc thay đổi nhận thức chứ không thể chuyển “tận gốc bản chất của nó”.

Chúng ta đều biết sau 49 ngày ngồi dưới cội bồ đề, Đức Thế Tôn đã chứng ngộ được chân lý và khẳng định “tất cả chúng sanh đều có một đức tính như một vị Phật” Điều này chứng minh rằng tất cả hữu tình đồng có đức tính cao quý: Từ bi hỷ xả, thường ngã lạc tịnh. Đây chính là bản chất của hữu tình, nhưng cũng chỉ vì một niệm mê mà lầm chấp thân tâm và thế giới nên biến một thứ tâm cao cả, trượng phu thành một thứ tâm nhiễm ô, hạ liệt.

Như Lai ra đời đem chân lý của mình (tứ đế, 37 phẩm) để giải quyết ba tầng vô minh của chúng sanh, tức là chuyển từ “hàm tàng thức” đến “bạch tịnh thức”(dứt nhuận chi vô minh và căn bản vô minh), và cuối cùng là “Như Lai tàng tâm”(dứt vô minh trụ địa). Giải quyết ba tầng vô minh chính là sự chuyển “trên đổi hiện tượng nhận biết” thông qua việc thay đổi nhận thức của người tu hành.

Ta có thể ví dụ như ruộng đất của người nông dân để trồng lúa hoặc cây ăn quả, nhưng vì một thời gian lơ là bị cỏ dại lấn chiếm. Để có được ruộng lúa hay cây ăn quả trở lại như lúc đầu, người nông dân phải làm sạch cỏ thì mới đem lại hiệu quả cho cây trồng sau này.

Ruộng lúa hoặc cây ăn quả dụ cho “Như Lai tàng tâm”, làm sạch cỏ dụ cho “bạnh tịnh thức”, cỏ dại lấn chiếm dụ cho “hàm tàng thức”.

Trên đây là phần trả lời của con, có gì thiếu só mong Thầy từ bi chỉ dạy.
CON, LÝ NHẠN ẢNH

ĐẾN ĐÂY KHÔNG THỂ ĐĂNG BÀI VIẾT CỦA LÝ GIÁC THƯ VÀ LÝ ĐỨC VIỆT VÌ GIỚI HẠN CỦA TRANG – TUY RẰNG HAI VỊ HĐ NÀY VIẾT RẤT HAY !!! ĐÁNG TIẾC THẬT !!!