Tổng Kết Chủ Đề: Thực Tập Thẩm Sát Môn Và Thấu Thị Môn
Trò chơi trí tuệ số 02.2020 - Tổng kết chủ đề thực tập thẩm sát môn và thấu thị môn

Các bạn !!!
Trong thời gian Trò Chơi Trí Tuệ - 02/2020 diễn ra... BQT đã nhận được trả lời của: Lý Thiện Cảnh, Lý Nhạn Ảnh, Lý Thiên Vân, Lý Phương Anh, Lý Hậu Vệ, Lý Thái Đăng, Lý Giác Thư, Lý Thiện Huệ, Lý Liêm, Lý Gia Long và Lý Anh Lạc !!!
Sau khi đọc kĩ những bài viết của các HĐ nêu trên, mình có một vài nhận xét sau:
- Hầu hết các HĐ của chúng ta hiểu rõ câu hỏi, nắm vững đề tài !!!
- Một số HĐ tuy hiểu rõ câu hỏi, nắm vững đề tài...Nhưng khi trả lời, chưa thiện xảo quy kết vấn đề đúng tinh thần “thẩm sát” vì thế không đáp ứng yêu cầu “thấu thị”... Dẫn đến việc các câu trả lời chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu từ câu hỏi đặt ra !!!
- Các bài viết của Lý Anh Lạc, Lý Thiện Huệ, Lý Liêm, Lý Hậu Vệ... Lý luận hay nhưng thiếu trọng tâm, chưa bám sát cơ sở thành tựu của Giác lực và Huệ lực...Vì thế, dẫn đến việc các câu trả lời trở nên thiếu hoặc thừa...Cho nên, không thoả mãn các điều kiện cần và đủ cho một câu trả lời hoàn hảo theo tinh thần Thẩm sát môn và Thấu thị môn !!!
- Ba bài viết của SH Lý Thái Đăng, SM Lý Phương Anh và Lý Giác Thư... Được BQT đánh giá là ba bài viết hay, đáp ứng tất cả các yêu cầu ba câu hỏi đặt ra !!!
Xin chúc mừng, SH LÝ THÁI ĐĂNG, SM LÝ PHƯƠNG ANH và SĐ LÝ GIÁC THƯ !!! Phần thưởng TCTT lần này, sẽ được chia đều cho ba vị HĐ nêu trên !!! Ha ha ha ha !!! (1.000.000: 3) = 333.333,333,333 !!!!!!!!!
BQT FANPAGE LÝ TỨ xin chân thành cảm ơn:
* Các HĐ đã có bài viết tham gia TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ - 02/2020 !!!
* Tất cả bạn đọc đã theo dõi, ủng hộ những kì TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ do BQT LÝ GIA tổ chức !!!
Xin chuyển đến mọi người, ba bài viết của: LÝ THÁI ĐĂNG - LÝ PHƯƠNG ANH & LÝ GIÁC THƯ !!!
Chúc mọi người an vui, tinh tấn !!!
15/03/2020 !!!
LÝ TỨ
1. Bài viết của Lý Thái Đăng
Kính Thầy !!!
Kính thưa các HĐTM Lý Gia !!!
Con xin trả lời câu hỏi TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ - 02/2020
CHỦ ĐỀ: THỰC TẬP THẨM SÁT MÔN VÀ THẤU THỊ MÔN!!!
1) Khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến đạo quả xuất thế...Một vị đã thành tựu Giác lực căn cứ vào những cơ sở nào để biết rằng, lời tuyên thuyết của người đó là đúng hay sai (con đường đưa đến đạo quả xuất thế) ??? Yêu cầu giải thích cụ thể!!!
Trả lời:
Để giải đáp tình huống đặt ra trong câu hỏi, ta lần lượt phân tích và giải thích như sau:
Đối với thông tin đầu vào (của ai đó giảng nói) về "con đường đưa đến đạo quả xuất thế..." hiện nay không những phong phú, đa dạng mà còn có thể nói là... rất náo nhiệt... chỉ cần một cú nhấp chuột với từ khóa “con đường đưa đến đạo quả xuất thế” thì hàng chục triệu kết quả tìm kiếm hiện ra...Người tu hành, nếu không có Bát Nhã Lực, Huệ Lực hay tối thiểu có chút vốn Giác Lực lận lưng thì sẽ rơi ngay vào… mê hồn trận!!!
Gặp phải hoàn cảnh "Bâng khuâng đứng giữa... nhiều dòng nước…”, mới thấy giá trị tuyệt vời của “GIÁC LỰC”, có thể ví như vị Quán Thế Âm Bồ Tát xuất hiện, cứu khổ, cứu nạn người tu hành đang lúc chơi vơi, mịt mờ phương hướng.
“Giác lực là gì ??? Giác lực chính là sức mạnh từ hiểu biết của một người sơ ngộ!!! Hạn chế của Giác lực là: Biết con đường sai, nhưng không thể biết con đường đúng!!! Vị thành tựu Giác lực khi nghe một ai đó tuyên thuyết về con đường đưa đến xuất thế, người này nhận ra những điều người ấy thuyết sai, nhưng cảnh giới xuất thế cụ thể như thế nào, vị có Giác lực không thể tự mình giải thích được!!! Ta có thể tạm hình dung một người lựa đậu, trong rổ có bốn thứ đậu là đậu đỏ, đậu xanh, đậu trắng và đậu đen...Người này tìm đậu đỏ, nhưng không biết đậu đỏ hình dáng như thế nào, vị ấy chỉ biết đậu đen, đậu xanh và đậu trắng...Người này bỏ ra ngoài các thứ đậu mình đã biết, phần đậu còn lại trong rổ chính là thứ đậu đỏ cần tìm!!! Muốn có Giác lực, người này phải thành tựu Tư Lương Vị!!!” (Lý Tứ)
Mặc dù chưa biết con đường đúng, nhưng nhờ thành tựu "Tư lương vị" mà người tu hành phát sanh "Giác lực" trợ giúp khẩn cấp để không làm xấu đi tình trạng hiện có bằng cách loại bỏ những đáp án biết rõ là sai.
Nhờ thành tựu TƯ LƯƠNG VỊ và ý nghĩa của các loại biển báo, chỉ dẫn trên đó mà người có GIÁC LỰC được coi là người thông tỏ 12 cung đường. Từ đây việc thẩm định để xác định đúng sai khi nghe ai đó giảng nói về con đường (mà mình đã thông tỏ) thì không còn là việc khó… Vị đó dễ dàng nhận ra rằng:
Trong 12 món Tư Lương Vị thì TỨ NIỆM XỨ (Thân, Thọ, Tâm, Pháp) đứng đầu, được coi là nền móng, là ĐẾ trong TỨ ĐẾ!!!
Bốn món Khổ, Tập, Diệt, Đạo mà người tu hành không biết xảy ra trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì đó chính mới là KHỔ ĐẾ!!!
Vì vậy: Một vị đã thành tựu Giác lực căn cứ vào (TỨ NIỆM XỨ) biết rằng, lời tuyên thuyết của người nào đó chỉ nơi tu tập ra ngoài (TỨ NIỆM XỨ) thì khẳng định (ai đó) chỉ sai vị trí, nhầm lẫn nơi chốn… Trật đường ray ngay khi xuất phát! (của con đường đưa đến đạo quả xuất thế).
Kinh Niệm Xứ đã chỉ rõ TỨ NIỆM XỨ là độc đạo đưa đến thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn… do vậy không có lối đi thứ hai hay niệm xứ thứ năm…!!!
Tiếp theo TỨ CHÁNH CẦN (Tứ chánh cần thuộc về tinh tấn, gồm bốn điều):
− Pháp ác chưa sanh không làm cho sanh;
− Pháp ác đã sanh phải mau trừ diệt;
− Pháp thiện chưa sanh mau làm cho sanh;
− Pháp thiện đã sanh làm cho tăng trưởng.
Bàn về Thiện – ác, đây là một đề tài rất rộng, nội dung liên quan đến nhiều ẩn số trong hàm số phức hợp bởi văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo… của nhiều quốc gia, đa sắc tộc… Vì vậy, trong phạm vi câu hỏi chỉ có thể tạm quy ước Pháp nào (mục tiêu, hành vi, suy nghĩ, giảng nói nào…) đưa người tu hành tinh tấn trên con đường đưa đến đạo quả xuất thế gọi là Pháp thiện.
Pháp nào (mục tiêu, hành vi, suy nghĩ, giảng nói nào…) đưa người tu hành dừng (trú) trên con đường tại thế, không đưa đến đạo quả xuất thế là Pháp bất thiện. Quay ngược với con đường đưa đến đạo quả xuất thế gọi là Pháp ác.
Vì vậy: Khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến đạo quả xuất thế... Một vị đã thành tựu Giác lực không còn mù mờ về Tứ chánh cần, thấu rõ ĐẠO XUẤT THẾ RA NGOÀI THIỆN ÁC THẾ GIAN. Từ đó, vị ấy không chạy theo thiện ác thế gian. Ứng dụng bất cộng phàm phu pháp để giải quyết tâm thức.
Mọi luận bàn (ai đó) giảng nói Thiện ác của thế gian mà cho rằng điều ấy đưa đến đạo quả xuất thế, thì biết rằng lời tuyên thuyết của người đó thuộc thế gian pháp, chẳng đưa ngươi tu hành đi trên con đường đưa đến đạo quả xuất thế.
Sau khi đã thành tựu Tứ chánh cần, người tu hành hướng tới Bốn phẩm thành quả của Tư Lương Vị là Tứ như ý túc, gồm bốn điều:
− Dục như ý túc;
− Tinh tấn như ý túc;
− Nhất tâm như ý túc;
− Quán (niệm) như ý túc.
Nếu coi việc thấm nhuần 12 phẩm Tư Lương Vị cho ra GIÁC LỰC, đọc được tấm bản đồ chỉ rõ 12 chặng đầu của 37 chặng, thì Nhất tâm như ý túc (dừng hiện nghiệp) được coi là La Bàn giúp người tu hành nhìn rõ phương hướng trên bản đồ và thực địa. Đây chính là căn cứ, là cơ sở đúng đắn để người tu hành biết rõ đúng sai khi (ai đó) tuyên thuyết, vững bước khởi hành trên con đường đưa đến đạo quả xuất thế.
Trong Lời Giới Thiệu mười một bài kinh Phật, Thầy Lý Tứ cũng đã chỉ dạy:
“Kinh điển của Đức Phật để lại, là ngọn đuốc soi đường, là tấm bản đồ vạch ra hướng đi đúng nhất, và là cái la bàn tiêu chuẩn, giúp người tu hành tiến về Vô Thượng Quả không sai lệch !!!”.
2) Khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến vô lậu... Một vị đã thành tựu Huệ lực căn cứ vào những cơ sở nào để biết rằng, lời tuyên thuyết đó là đúng hay sai (con đường đưa đến vô lậu) ??? Yêu cầu giải thích cụ thể !!!
Trả lời:
Một vị đã thành tựu Huệ lực… Là vị tu hành đã trải qua 22/37 chặng đường dài, đó là: Tứ niệm xứ; Tứ chánh cần; Tứ như ý túc; Ngũ căn; Ngũ lực và chặng đường tiếp theo sẽ là Thất giác chi đi vào Bát chánh đạo.
Huệ lực có một giá trị và công dụng vô cùng đặc biệt… được Thầy Lý Tứ giảng giải như sau:
“Huệ lực là gì ??? Huệ lực chính là sức mạnh từ hiểu biết của một người thành tựu Ngũ Căn và Ngũ Lực!!! Ưu thế của người có Huệ lực là, biết được con đường nào đưa đến hữu lậu, con đường nào đưa đến vô lậu!!! Nhờ ưu thế này, người thành tựu Huệ lực tự mình có thể ứng dụng Trạch Pháp Giác Chi để chứng Diệt đế!!! Vị có Huệ lực khi nghe một ai đó tuyên thuyết về con đường đưa đến vô lậu, vị ấy biết rất rõ người kia thuyết sai hay đúng!!! Cảnh giới này giống người xa xứ nhiều năm, trên đường về nhà, tuy chưa đến nơi, nhưng biết rõ con đường nào giúp người ấy đến nhà, con đường nào không!!!”
Vậy điều gì đã tác động vào Ngũ căn; Ngũ lực làm nên sự thay đổi kỳ diệu, khiến người tu hành được vãng sanh cảnh giới từ Giác lực đến Huệ lực? Từ Hữu lậu (còn rỉ chảy phiền não) chuyển thành Vô lậu (không còn rỉ chảy phiền não).
Ta quan sát tuần tự 12 phẩm thì tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc như ba giai đoạn để chiếc máy bay phản lực vào đúng vị trí xuất phát, tăng tốc lấy đà và cất cánh. Cất cánh thành công được coi là vào không gian ‘Kiến Đạo Vị”.
Giác lực của giai đoạn Tư lương vị như một tác nhân thúc đẩy sự phát sanh năm cái rễ mà gọi là Ngũ căn. Khi năm cái rễ hoạt động thì Ngũ căn phát sanh thành Ngũ lực, Huệ căn chuyển thành Huệ lực, nhờ có Huệ lực dự phần mà Trạch pháp chuyển thành Trạch pháp giác chi. Nhờ ưu thế này mà vị có Huệ lực biết rõ con đường đã qua và cả hướng về nhà an ổn (vô lậu)…
Từ đây, khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến vô lậu... Một vị đã thành tựu Huệ lực nhận ra rằng:
Vô lậu (trong Phật đạo) là không còn phiền não rỉ chảy, che mờ bổn tâm thanh tịnh… Ai đó tuyên thuyết “Phạm hạnh dĩ lập” thì (Một vị đã thành tựu Huệ lực) thấu tỏ trước đó (ai đó) phải trải qua “Chư lậu dĩ tận”…
Muốn “Chư lậu dĩ tận”… thì không thể để y nguyên pháp thế gian (hữu Lậu) mà tận được “Chư lậu”...bởi vì:
Nương vào một pháp hữu vi, chẳng khác nào dùng trộm đuổi trộm, dùng nước làm khô nước, vừa xả rác vừa quét rác chẳng bao giờ (vô rác)… gọi là “bệnh Tác”.
Chẳng làm gì? Bàng quang bỏ mặc chăng? Chẳng khác phàm phu… gọi là “bệnh Nhậm”.
Diệt tham, sân, si...(kiết sử) chăng? Chẳng thể giết được người trong mộng, bởi “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh…” gọi là “bệnh chỉ, bệnh diệt”.
Cắm đầu, cắm cổ tu hành để (vô ngã…vô lậu) chăng? Chẳng thể được, bởi vì “Tu hành là Pháp làm ra! Mà cái gì làm ra thì không thể KHÔNG, không thể VÔ TƯỚNG, không thể VÔ TÁC (vô nguyện). Tu hành không thể diệt được NGà vì tu hành chính là NGÔ (Lý Tứ).
Vì vậy: Muốn từ Hữu Lậu sang Vô Lậu chỉ có thể là con đường Giác ngộ!!! Người hiểu biết xưng tán Phật là Bậc Đại Giác Ngộ chứ không phải là Bậc Đại Tu Hành!!!
Giác ngộ trước hết là quay về lặng lẽ quan sát… để nhận ra bổn lai tâm này vốn thanh tịnh, do niệm bất giác mà sanh khởi pháp sanh diệt, tâm hư vọng tạo thành vòng quay (Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp)… và khi (ai đó) Giác ngộ được bổn tâm… hay dứt một duyên, ví dụ (xúc, thọ, ái, thủ) thì luân hồi chúng sanh chấm dứt (Sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc).
Để giải niệm mê lối cũ ta về, đường xưa hữu lậu, Phật dạy Tam vô lậu học hay Giới, Định, Tuệ vô lậu để chấm dứt nguồn mê!
Người có Huệ lực… nhận ra rằng "Tam vô lậu học" là học một mà được ba, nghĩa là tùy căn cơ đi vào một trong ba môn học (Giới vô lậu, Định vô lậu hoặc Tuệ vô lậu); Tùy nhân duyên mà (người tu hành) có thể chọn Giới, Định vô lậu để vào cửa Thân hoặc Thọ; hay Tuệ vô lậu đi vào cửa Tâm hoặc Pháp... nhưng tất cả đồng đưa đến vô lậu! Bởi nguyên lý “Nhất chơn, nhất thiết chơn”, “Một căn thanh tịnh, tất cả các căn đồng thanh tịnh”.
Một vị đã thành tựu Huệ lực biết rất rõ lợi ích "Tam vô lậu học" là (học một mà được ba) khác hoàn toàn bản chất với Giới, Định, Tuệ hữu lậu, là học ba mà chẳng có lấy được một… chút vô lậu!!! Bởi công nghệ chế tạo xe máy chẳng cho ra sản phẩm máy bay!!!
Để dạy người tu hành thành tựu Giới vô lậu, Phật tuyên thuyết “Kinh căn tu tập”!!!
“Kinh căn tu tập”! được Thầy Lý Tứ chỉ rõ “Kinh căn tu tập… kinh này là chiếc bản lề, là bước đệm không thể thiếu đối với người tu hành bước từ Hữu Lậu sang Vô Lậu, bước từ “Thế Gian Giới” sang “Xuất Thế Gian Giới”, cho nên trong kinh mới đề cập đến “vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh”... Có nghĩa rằng, có thành tựu các căn tu tập, sau đó mới thành tựu "Vô Lậu Giới", Vô Lậu Giới của Bậc Thánh chẳng đồng cấm giới (quy ước giới) của Thế Gian Giới !!!” (Lý Tứ).
Tóm lại: Vị đã thành tựu Huệ lực như người xa xứ nhiều năm trên đường về nhà, biết rõ con đường đưa đến vô lậu chỉ có thể bằng Giác ngộ, Giải thoát và Trí tuệ, (mà ai đó) nhận ra và ứng dụng thấm nhuần bài “Kinh các căn tu tập” thì người đó coi như đã nắm chắc được một loại chìa khóa… mở ra con đường đi đến VÔ LẬU.
Ngược lại (ai đó) giảng nói về con đường đưa đến vô lậu mà chẳng biết Tam vô lậu học; chẳng rõ Kinh căn tu tập… mà cứ chấp chặt quy ước Giới; Định cột trói; Tuệ thế gian để tu hành thì kết quả sẽ là Tam Quốc diễn tuồng trong ba cõi.
3) Bạn hãy đơn cử một đoạn kinh hội đủ yêu cầu Tam thân là: Danh thân, Cú thân, Hình thân...Và chỉ ra, cụ thể trong đoạn kinh đó, câu nào là Danh thân, câu nào là Cú thân và câu nào là Hình thân ???
Trả lời:
(Trích KINH KIM CANG) = TRỤ TÂM, HÀNG PHỤC TÂM
− “Thế Tôn! Nếu có những kẻ nam người nữ lòng lành phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ đề, nên trụ tâm như thế nào? Hàng phục tâm như thế nào?
Phật dạy: “Lành thay! Lành thay! Tu Bồ Đề, đúng như ông vừa nói. Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ Tát, khéo dặn dò các vị Bồ Tát. Nay hãy lắng nghe, Ta sẽ vì các ông mà giảng thuyết.
“Nếu có kẻ nam người nữ lòng lành phát tâm Bồ đề, nên trụ tâm như thế này, nên hàng phục tâm như thế này.”
− “Bạch Thế Tôn! Con nguyện được lắng nghe.”
Phật dạy Tu Bồ Đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sanh: Hoặc sanh từ bào thai, hoặc sanh từ trứng, hoặc sanh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sanh ra, hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng, Ta đều độ cho nhập vào Vô dư Niết bàn. Như vậy diệt độ vô số chúng sanh, nhưng thật không có chúng sanh nào được diệt độ.’
Đoạn kinh (đã trích) hội đủ yêu cầu Tam thân là: Danh thân, Cú thân, Hình thân...
+ Danh thân:
“Nếu có kẻ nam người nữ lòng lành phát tâm Bồ đề, nên trụ tâm như thế này, nên hàng phục tâm như thế này.”
+ Cú thân
Phật dạy Tu Bồ Đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sanh: Hoặc sanh từ bào thai, hoặc sanh từ trứng, hoặc sanh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sanh ra, hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng, Ta đều độ cho nhập vào Vô dư Niết bàn”.
+ Hình thân:
Như vậy diệt độ vô số chúng sanh, nhưng thật không có chúng sanh nào được diệt độ.
Con xin đảnh lễ Thầy ba lễ !!!
Con, Lý Thái Đăng
2. Bài viết của Lý Phương Anh
Kính Thầy,
Con xin trả lời Trò Chơi Trí Tuệ - 02/2020.
1) Khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến đạo quả xuất thế...Một vị đã thành tựu Giác lực căn cứ vào những cơ sở nào để biết rằng, lời tuyên thuyết của người đó là đúng hay sai (con đường đưa đến đạo quả xuất thế) ???
Trả lời:
Thưa Thầy,
Theo con, có 3 cơ sở để người thành tựu Giác lực làm căn cứ để khi nghe ai đó tuyên thuyết về đạo xuất thế, nhận định tuyên thuyết đó là đúng hay sai. Ba cơ sở đó là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc. Vì sao như vậy?
Một vị đã thành tựu Giác lực hay nói khác đi là Sơ ngộ có nghĩa là người này đã hoàn thành Tư lương vị bao gồm 12 phẩm: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc.
Vị này không còn lơ mơ mà đã nhìn nhận được, xác định được nơi chốn, mục tiêu trận đấu của mình cũng như hình thù quân giặc mình cần điều phục. Vị này biết khổ đau phiền não kiết sử chỉ hiện trên bốn món cơ bản là Thân, Thọ, Tâm, Pháp, tức chỉ từ da này trở vô chứ không long rong chạy theo các tác động thấy nghe bên ngoài. Thân là cái thân da thịt này. Thọ là những cảm thọ mà ta nhận chịu và chi phối tâm trí. Tâm là những hiệu ứng tình cảm do mê trần cảnh bất giác ôm nó vào lòng mà sinh các thứ tâm hư vọng. Pháp là những quan điểm, quan niệm, nhận thức phân biệt gây phiền não trói buộc.
Do có được hiểu biết rõ ràng minh bạch như vậy, vị này chỉ y nơi bốn niệm xứ và hiểu biết về bốn niệm xứ đó làm kim chỉ nam mà giác quán. Không chỉ vậy, vị ấy còn chuyên cần, tăng thiện giảm ác chăm sóc nuôi dưỡng cây giác ngộ. Đạt tới nhất tâm trong quá trình tu tập, do đó vị ấy bắt đầu cảm giác thấy cái an lạc đến với mình, thấy mình ra khỏi sự việc, ra khỏi phiền não lúc trước trói buộc (nhất tâm dừng hiện nghiệp).
Hệ quả tất yếu này đem đến cho vị ấy một cảm nhận ban sơ về cảnh giới xuất thế. Mặc dù lúc này chưa biết chính xác cảnh giới xuất thế cụ thể và trọn vẹn nó như thế nào (an lạc chỉ đến do giác chứ chưa ngự trị, bất giác là mất) nhưng cái thanh lương của đạo xuất thế thì vị này đã được trải nghiệm. Giống như trong kinh đã miêu tả: Khi con kiến tới được mép của đĩa mật, mặc dù mới tới mép nhưng vị ngọt ở rìa đĩa mật không khác vị ngọt ở giữa đĩa mật. Chính do được hưởng, được nếm những lợi ích thiết thực nhất định đầu tiên này mà vị ấy biết sự tu tập của mình có hiệu quả, đã đặt một chân vào cảnh giới xuất thế và biết mục tiêu mình đã xác định, đường đi mình đã vạch ra ban đầu là đúng.
Sau khi thành tựu Tư lương vị thì chính những phẩm trong Tư lương vị này quay trở lại làm thành Giác lực, làm thành 3 cơ sở để vị ấy khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa tới đạo xuất thế thì biết lời tuyên thuyết này là đúng hay sai.
* Cơ sở 1: Dựa trên Tứ Niệm xứ.
Tuy chưa biết con đường cụ thể nào là đúng là đưa về đích toàn thắng, nhưng người này biết chắc chắn rằng nếu con đường nào mà ngay từ định hướng, ngay từ điểm xuất phát đã ra ngoài 4 niệm xứ, ra ngoài Thân, Thọ, Tâm, Pháp hoặc có nhắc tới Thân, Thọ, Tâm, Pháp nhưng với những tri kiến sai lệch về Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì chắc chắc con đường ấy là con đường sai.
Vị ấy biết rõ rằng Phật pháp mênh mông nhưng chỉ có bốn nơi chốn “từ da này trở vô thôi » người tu hành phải gửi gắm tâm ý vào đó mà tu tập. Ngoài bốn niệm xứ này, nếu người tuyên thuyết hướng người nghe, đem tâm ý người nghe rong ruổi bên ngoài nơi một niệm xứ khác, ví dụ đưa vào thế giới, đưa vào không gian, đưa vào quá khứ, đưa vào bình bàn… thì nó không phải nơi làm cho ta an vui.
Nếu người tuyên thuyết hướng người nghe đến việc xây dựng một đạo tràng bên ngoài, mà không phải một đạo tràng nơi tự thân “chỉ từ da này trở vô thôi” thì kể cả là lên núi lên non vào đình vào chùa cũng không đưa tới hiệu quả tu tập, không đưa tới cảnh giới xuất thế mà chỉ tiếp tục khiến ta động lay, không an ổn. Con đường này nhất định không phải con đường đưa tới cảnh giới xuất thế.
* Cơ sở 2: Tứ chánh cần, tức tăng thiện giảm ác.
Do đã thực chứng, đặt một chân vào cảnh giới xuất thế, người này hiểu biết rất rõ chữ thiện ác ở trong đạo xuất thế không giống với chữ thiện ác ở thế gian.
Người ở trong đạo xuất thế thiện cũng xả mà ác cũng xả. Hay nói khác hơn từ bỏ cái thiện thế gian, từ bỏ cái ác của thế gian, siêu quá cái thiện cái ác của thế gian để vào cái không thiện không ác.
Do vậy, nếu một người tuyên thuyết mà những lời tuyên thuyết này chỉ hướng người nghe đi theo cái phân định thiện/ác của thế gian, tức cái luân lý cái đạo đức, cái quan niệm thế gian thông thường thì, con đường này vẫn chỉ là con đường loanh quanh trong ba cõi, hướng tới các mục đích của ba cõi chứ không thể tiến về đạo xuất thế.
* Cơ sở 3: Tứ như ý túc
Bằng quan sát chính quá trình của mình, người này hiểu rất rõ một nhân tố quan trọng mang tính quyết định, thúc đẩy, đưa tới việc thành tựu của mình chính là sự Nhất tâm, tức một lòng một dạ hướng tới mục tiêu.
Do vậy, khi nghe người tuyên thuyết nếu những lời tuyên thuyết này không đưa tới Nhất tâm, không làm giảm thiểu, rơi rụng đa tâm, thậm chí tệ hơn còn làm gia tăng tán tâm người nghe...thì người này biết chắc chắn rằng con đường này không thể là con đường đưa tới quả vị xuất thế.
Tóm lại, Giác lực chính là sức mạnh từ hiểu biết và thân chứng về Tứ Niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc. Đạo tràng chỉ có thể xây dựng nơi tự thân từ bốn món Thân, Thọ, Tâm, Pháp; hiểu biết về cái thiện/ác ra ngoài khái niệm quan niệm thiện ác thông thường của thế gian và sự cần thiết mang tính quyết định của Nhất tâm...chính là những cơ sở để một người đã thành tựu Giác lực khi nghe một ai đó tuyên thuyết về con đường đưa đến xuất thế, tuy chưa thể nói hay giải thích cảnh giới xuất thế cụ thể như thế nào, vẫn có thể nhận ra những điều người kia thuyết sai.
2) Khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến vô lậu... Một vị đã thành tựu Huệ lực căn cứ vào những cơ sở nào để biết rằng, lời tuyên thuyết đó là đúng hay sai (con đường đưa đến vô lậu)???
Trả lời:
Theo con là Ba học pháp vô lậu (Giới vô lậu, Định vô lậu, Tuệ vô lậu) là cơ sở để một người thành tựu Huệ lực khi nghe một ai đó tuyên thuyết con đường đưa đến vô lậu, nhận định lời tuyên thuyết đó là đúng hay sai. Vì sao như vậy?
Một vị có Huệ Lực hay nói khác đi là người đã bước chân vào Kiến đạo vị, đã thành tựu 10/17 phẩm của Kiến đạo vị là Ngũ căn và Ngũ Lực. Sau khi có Huệ lực, người này chỉ cần thành tựu bước cuối cùng là Thất giác chi, xuyên phá những lớp cuối cùng của mê muội, từ vô minh của các pháp, sẽ chứng Diệt đế, giải thoát tự thân.
Như định vị phía trên đã nêu, Ngũ căn Ngũ Lực là quá trình xuất phát từ việc người này cảm nhận được cái an lạc đầu tiên do Nhất tâm đưa đến. Từ cái an lạc thanh tịnh đầu tiên được hưởng được nếm này, người ấy lấy cái Thanh tịnh tâm đó làm gốc (GIỚI), giác quán như pháp để thấu suốt bản chất các pháp, từ đó lậu hoặc ngừng rỉ chảy ngưng hiện khởi (ĐỊNH), nhân nơi hiểu biết đúng như thật này mà sáng suốt hết tăm tối (TUỆ). Đây chính là sự áp dụng Ba học pháp vô lậu: Giới vô lậu, định vô lậu, tuệ vô lậu.
Giống như, khi một người bị bệnh kinh niên bao nhiêu thầy bao nhiêu thuốc chữa không hết, giờ uống thứ thuốc 3 trong 1 giới-định-tuệ vô lậu này, bỗng dưng cảm nhận thấy bệnh thuyên giảm rõ rệt, thì niềm tin vào thứ thuốc này rất chắc chắn không thể thay đổi (thành tựu Tín căn-Tín lực); tiếp đến là nỗ lực uống thuốc nỗ lực điều trị không giảm (thành tựu Tấn căn- Tấn lực); luôn ghi nhớ giờ uống thuốc, ghi nhớ cách uống thuốc (thành tựu Niệm căn - Niệm lực); và bằng lòng, an lòng với phương pháp điều trị này (thành tựu Định căn - Định lực).
Đến đây, có hai hệ quả tất yếu xảy ra: Một là bệnh tình của người này thuyên giảm rõ rệt tiến dần đến việc chữa khỏi hoàn toàn, hai là người này một cách tự nhiên qua quá trình tự mình tinh tấn điều trị mà có được một hiểu biết nhất định về phương pháp điều trị này, về bản chất căn bệnh này thứ thuốc này, nó tác động vào đâu làm thay đổi những gì dẫn đến kết quả ra sao (thành tựu Huệ căn- Huệ lực).
Thì cũng như vậy, phiền não lậu hoặc ở người đã thành tựu Ngũ căn Ngũ lực giảm thiểu dần dần tới ngưng rỉ chảy. Đồng thời vị này có được một hiểu biết nhất định chắc chắn về bản chất phương tiện, cách thức dẫn tới kết quả ngưng rỉ chảy phiền não lậu hoặc.
Do vậy, Ba học pháp vô lậu (Giới- Định- Tuệ vô lậu) chính là nhân đưa người này từng bước thành tựu Ngũ căn Ngũ lực và sau đó cũng quay lại trở thành cơ sở để người này khi nghe ai đó tuyên thuyết về con đường đưa đến vô lậu thì biết lời tuyên thuyết đó là đúng hay sai.
* Cơ sở 1: Giới vô lậu
Người này hiểu rất rõ tu hành trong Phật đạo là để được thanh tịnh tâm thì cũng phải lấy chính sự thanh tịnh vô lậu của tâm này làm giới mà giữ gìn.
Khi nghe một người tuyên thuyết, vị ấy có thể phân định được thứ Giới trong lời tuyên thuyết là Giới hữu lậu hay giới vô lậu. Nếu người tuyên thuyết hướng người nghe tới giới như một sự cấm đoán, một điều răn, một sự ngăn cấm mang tính mệnh lệnh...thì giới này có thể quay lại trở thành một thứ trói buộc và nó vẫn chỉ là một hữu lậu pháp, là nhân tố dẫn đến hữu lậu tâm. Do vậy con đường này không thể là con đường đưa tới vô lậu.
* Cơ sở 2: Định vô lậu
Người này hiểu rất rõ định vô lậu là một thứ hệ quả mang tính tất yếu, tự sanh do thấu suốt bản chất các pháp mà các lậu hoặc không thể sinh khởi, chứ không phải là một thứ được làm ra, do tạo tác.
Khi nghe một người tuyên thuyết, vị này có thể phân định được thứ Định trong lời tuyên thuyết là Định hữu lậu hay Định vô lậu. Nếu người tuyên thuyết hướng người nghe tới một thứ định thành tựu bằng cách tập trung tinh thần hay cột chặt tâm ý... thì thứ định này chỉ là một thứ định làm ra, không dứt trừ lậu hoặc mà chỉ là tạm chôn vùi, lảng tránh, đè nén, cô kết lậu hoặc. Thứ định này vẫn là hữu lậu pháp không đưa đến chấm dứt lậu hoặc. Con đường này nhất định không đưa tới vô lậu tâm.
* Cơ sở 3: Tuệ vô lậu
Người này hiểu rất rõ Tuệ vô lậu là thứ trí tuệ có được nhân nơi hiểu biết như pháp. Khi nghe một người tuyên thuyết về con đường đưa tới vô lậu, người ấy có thể phân định được thứ Tuệ trong lời tuyên thuyết là Tuệ vô lậu hay Tuệ hữu lậu.
Nếu người tuyên thuyết không hướng tới những hiểu biết như pháp có khuynh hướng chấm dứt lậu hoặc, mà lại hướng tới những hiểu biết có khuynh hướng làm lớn tự ngã thì, thứ Tuệ này vẫn là Tuệ hữu lậu, không thoát ra khỏi tăm tối, vô minh, không giúp ích cho việc chấm dứt kiết sử, phiền não. Và con đường này nhất định không phải là con đường dẫn tới vô lậu tâm.
Vô lậu tâm giống như chiếc kiềng 3 chân, 3 chân ấy là Giới vô lậu- Định vô lậu- Tuệ vô lậu. Có một được ba. Có ba nhưng cũng chỉ từ một. Còn Giới- Định- Huệ hữu lậu chỉ là thứ Giới, Định, Huệ rời rạc, què cụt, có giới nhưng bên trong giới không có định, có định nhưng bên trong định chẳng chứa tuệ. Nói chung là pháp hữu vi hữu lậu, không thể đưa tới rốt ráo chấm dứt rỉ chảy phiền não, lậu hoặc.
Tóm lại, khác với một người có Giác lực, sau khi đã thành tựu Tứ Niệm Xứ, Tứ chánh cần, Tứ Như ý túc thì những phẩm này quay lại trở thành 3 cơ sở để vị ấy thẩm định một lời tuyên thuyết.
Người thành tựu Huệ lực phải trải qua Ngũ căn Ngũ Lực nhưng Ngũ căn Ngũ lực lại không phải là cơ sở để người này quay lại dựa vào để thẩm định một lời tuyên thuyết. Ngũ căn Ngũ Lực giống như những cột mốc trên 10 km quãng đường mà một người đi qua, những cột mốc này chỉ mang tính chất đánh dấu chứ không phải là thứ phương tiện, cỗ xe giúp người này vượt quãng đường 10 km. Mà chính là Ba học pháp vô lậu làm nhân xuyên suốt và sau đó trở thành thành quả, làm cơ sở thực chứng để người này nhận biết đánh giá phân định một lời tuyên thuyết.
3) Bạn hãy đơn cử một đoạn kinh hội đủ yêu cầu Tam thân là: Danh thân, Cú thân, Hình thân...Và chỉ ra, cụ thể trong đoạn kinh đó, câu nào là Danh thân, câu nào là Cú thân và câu nào là Hình thân ???
Trả lời:
Ngày xưa khi thuyết pháp, Phật đã sử dụng vô lượng phương pháp giáo dục linh hoạt khác nhau để giúp người dễ lãnh hội, tư duy phát sinh trí tuệ.
Một trong những yếu tố tiên quyết làm nên thành công trong sự nghiệp hoằng hoá của Ngài chính là việc luôn thấu suốt đối tượng mình đang hướng tới là ai, cảnh giới họ đang ở đâu và cảnh giới họ cần tới tiếp theo là gì. Có lẽ vì thế mà theo con, khi đọc bất cứ một cuốn kinh nào, bài tuyên thuyết nào của Phật nếu để ý cũng sẽ thấy phương pháp Tam thân (danh-cú-hình thân) mà Người đã sử dụng.
Theo con, ngay ở lần tuyên thuyết đầu tiên sau khi rời gốc Bồ đề giảng cho 5 anh em Kiều Trần Như, Phật cũng đã hội đủ trong đó yêu cầu Tam thân:
“Sau khi rời khỏi cội Bồ Đề, Phật quán thấy năm anh em Kiều Trần Như là những người đáng được độ trước. Phật đi thẳng đến vườn Lộc Uyển, từ xa năm anh em Kiều Trần Như thấy Thái Tử nhưng trong lòng không muốn đón tiếp.
Đến nơi, Phật ba lần tuyên nói: Ta là Như Lai Đẳng Chánh Giác. Bây giờ năm anh em Kiều Trần Như mới miễn cưỡng đón tiếp. Với 32 tướng tốt tỏ lộ, Phật đến gần tuyên thuyết:
“Này Kiều Trần Như, sắc là vô thường, hễ cái gì vô thường đều biến hoại và sanh khổ não. Này Kiều Trần Như, không nên lấy sắc làm ta, làm ngã của ta, và làm tự ngã của ta, diệt sắc vô thường sẽ được sắc giải thoát thường trụ. Thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy.”
* Danh thân: Chỉ ra tên gọi, khái niệm, vấn đề.
Ta thấy, Phật biết rất rõ 5 anh em Kiều Trần Như tu theo ngoại đạo đang bị vướng mắc bởi hy vọng kiên tâm tu hành nơi ngũ ấm sẽ thành tựu điều gì đó. Do vậy chỉ bằng một lời ngắn gọn, Phật chỉ ra “Sắc (thọ, tưởng, hành, thức) là vô thường” như một nhát đao cắt đứt tri kiến hiện tại của 5 anh em Kiều Trần Như.
* Cú thân: Chỉ ra ý nghĩa, nguyên nhân hình thành và phương cách tịch diệt.
Ta thấy, Phật chỉ ra nguyên nhân “hễ cái gì vô thường đều biến hoại và sanh khổ não” và phương cách tịch diệt “Này Kiều Trần Như, không nên lấy sắc làm ta, làm ngã của ta, và làm tự ngã của ta »
* Hình thân: Chỉ ra quả chứng cũng như cảnh giới cứu cánh nơi tự thân.
Ta thấy, Phật chỉ rõ quả chứng “Diệt sắc vô thường sẽ được sắc giải thoát thường trụ” đồng thời mở rộng phần hộ trì để giúp thâm nhập cảnh giới cứu cánh nơi tự thân “Thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy.”
Như vậy, chỉ với 3 câu tuyên thuyết ngắn gọn ta thấy hội đủ yêu cầu Tam thân, như một nhát dao sắc bén trong tíc tắc cắt lìa tri kiến hiện tại của người nghe, nâng người lên một cảnh giới hoàn toàn mới. 5 anh em Kiều Trần Như sau đó không lâu cũng xác quyết chứng quả A La Hán. (Phần tản mạn mở rộng thêm, nhân chủ đề áp dụng hai học học thuyết Tam thân và Nhơn Minh Luận)
Nếu như bài tuyên thuyết trên của Phật với 5 anh em Kiều Trần Như là một ví dụ cho học thuyết Tam thân (đưa một vấn đề để giúp người giác ngộ) thì con cảm nhận trích đoạn dưới đây, Thầy kiến giải về bài tuyên thuyết này của Phật trong cuốn Phật giáo và thiền, lại là một điển hình của học thuyết Nhân Minh Luận với đầy đủ quy trình: Đưa ra tiền đề, nhân đó mà giảng thêm sâu rộng và cuối cùng đưa ví dụ cụ thể để củng cố kiến giải, giúp người dễ nhớ dễ hiểu dễ thực hành.
Thầy đã khéo léo dùng những cách thức, ngôn ngữ, hình ảnh sát với thực tế thời nay để giúp chúng con dễ dàng cảm nhận, nắm bắt từ đó thấu triệt những lời có phần trừu tượng khó tiếp cận của Phật do tuyên thuyết cách đây hơn 2500 năm ở bối cảnh xã hội và văn hoá của người xưa.
Từ sự hiểu rõ và thấu triệt này mà chúng con dễ dàng áp dụng thực hành, thay đổi nhận thức, thay đổi hành vi, thay đổi đời sống.
Xin một lần nữa cùng đọc lại trích đoạn Thầy đã viết:
“Tiền đề ở đây được nêu lên là ‘ngũ ấm vô thường’, đã vô thường thì không nên căn cứ vào đó để tìm chân lý vĩnh cửu. Không lấy sắc làm ta, có nghĩa không nên cho thân này là của ta. Nếu cái gì của ta khi nó mất đi sẽ khiến ta khổ đau. Ví như tài sản của ta mất đi nhất định ta sẽ đau xót. Nếu tài sản này của ai đó thì chẳng có mối liên hệ nào đối với ta dù mất hay còn. Thân này vô thường nhất định sau 80 năm đời người rồi sẽ diệt mất, cách tốt nhất để khỏi khổ đau khi thân này biến hoại là không có quan niệm sắc này của ta.
Vấn đề thứ hai được nêu lên là không lấy sắc làm ngã của ta. Có nghĩa sắc này đã biết là vô thường thì chẳng thể lấy cái vô thường làm chỗ dựa để so sánh với các sắc khác. Bản chất của thân vô thường thì y vào cái gì để so sánh, nếu căn cứ vào vật vô thường để thấy vật này hoặc hơn hoặc kém vật kia thì sự thấy biết này chẳng thể gọi là người có trí. Có nhất thiết đem thân này so sánh với thân khác để tạo nên sự cột trói vô lý hay không? Muốn giải thoát, Phật khuyên Kiều Trần Như hãy xả cái ngã không thực, cái ngã y chỉ trên thân.
Điều thứ ba được Thế Tôn dẫn ra là không lấy sắc làm tự ngã của ta. Tự ngã ở đây chỉ ra rằng không thể lấy vật vô thường để làm chỗ nương tựa vĩnh hằng. Những ai mong rằng từ thân này sẽ tạo được mối quan hệ bền vững đời đời là chuyện không tưởng, vì bởi thân này nhất định sẽ mất và thân sau là kết tụ của nghiệp. Không có chuyện y nơi thân vô thường tu luyện để cầu mong thân thường, đây là quan niệm sai lầm của ngoại đạo thời bấy giờ.
Thân đã như vậy, thì tâm (thọ, tưởng, hành, thức) cũng đều như vậy, vì thân tâm này là kết quả của nghiệp, nếu y nơi nghiệp thì không thể thoát ra khỏi trói buộc của nghiệp.
Luận chứng này đưa ra tiền đề thứ hai trong bài kinh đó là "diệt sắc vô thường sẽ được sắc giải thoát thường trụ" có nghĩa người trí cần phải xác lập vị trí của thân trong đời sống. Nếu yểm ly được ba quan niệm trên về thân thì nơi thân này sẽ được thân giải thoát hay giải thoát khỏi sự trói buộc của thân. Thọ, tưởng, hành, thức cũng phải thấy biết như vậy. Thấy biết rõ ràng thì giải thoát khỏi trói buộc thân tâm vô thường là điều hiển nhiên....” Trích Phật Giáo Và Thiền - Lý Tứ)
Kính Thầy,
Kính HĐTM,
Trên đây là phần trả lời Trò Chơi Trí Tuệ - 02/2020 của con. Hiểu biết của con nhất định còn nhiều thiếu sót. Mong Thầy và các HĐTM giúp con bổ khuyết. Xin vạn lần tri ân Thầy và HĐTM!
Con, Lý Phương Anh
Con xin đảnh lễ Thầy 3 lạy !!!
3. Bài viết của Lý Giác Thư
Kính HĐTM Lý Gia !
Con xin tham gia trả lời câu hỏi:
Câu 1) Khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến đạo quả xuất thế...Một vị đã thành tựu Giác lực căn cứ vào những cơ sở nào để biết rằng, lời tuyên thuyết của người đó là đúng hay sai (con đường đưa đến đạo quả xuất thế) ??? Yêu cầu giải thích cụ thể !!!
Trả lời:
Giác lực là sức mạnh từ sự hiểu biết do người này giác mà được hay là sức mạnh từ hiểu biết của một người sơ ngộ.
Giác lực chỉ có ở người sơ ngộ tức là sau khi người này dừng được tâm rồi, thành tựu Tư Lương Vị chớm có được cái giác ngộ ban sơ. Nên khi nghe ai thuyết lên một điều gì đó, nghe qua người này biết ngay người đó thuyết sai hay đúng. Đây là thành quả của một người có Giác Lực.
Như vậy khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến đạo quả xuất thế...Một vị đã thành tựu Giác lực dựa vào những cơ sở sau để biêt người này thuyết đúng hay thuyết sai (con đường đưa đến đạo quả xuất thế):
- Thứ nhất người đó phải thuyết về Tứ Niệm Xứ, tức là bốn món thân, thọ, tâm và pháp. Bởi vì đây là bốn nơi chốn người tu hành phải dựa vào xây dựng đạo tràng để tu tập. Bốn niệm xứ giống như bốn mảnh đất để người ta trồng cái cây giác ngộ. Ngoài ra không có niệm xứ thứ 5 chúng ta thành đạo quả được.
- Thứ hai người này phải thuyết về Tứ Chánh Cần. Đây là những việc cần làm ngay gồm hai phần thiện và ác. Tức là việc ác chưa sanh không cho nó sanh, việc ác sanh rồi thì từ bỏ nó, việc thiện chưa sanh hãy làm cho nó sanh, việc thiện sanh rồi hãy trưởng dưỡng nó. Nhưng thiện ác cũng có thiện ác thế gian và thiện các xuất thế gian.
Như vậy một người tu hành muốn vào xuất thế gian thì phải từ bỏ cái thiện ác của thế gian để vào cái không thiện không ác, vì thiện ác chỉ ở trong ba cõi, ra khỏi ba cõi cái giá tri này nó không còn nữa.
Như thế khi vào đạo xuất thế, người này còn ôm cái thiện ác thế gian, thì thiện các thế gian trở thành ác pháp, nó sẽ thành thứ ngăn trở người tu hành tiến về đạo quả xuất thế.
- Thứ ba người này phải thuyết về Tứ Như Ý Túc, gồm Dục Như Ý Túc, Tinh Tấn Như Ý Túc, Nhất Tâm Như Ý Túc và Niệm Như Ý Túc. Đây là hành trang cuối cùng để người này bước vào đạo xuất thế dựa trên nền tảng NHẤT TÂM ĐỂ DỪNG HIỆN NGHIỆP. Bốn điều người tu hành phải thành tựu như ý, nếu bốn điều này không như ý (trong đó nhất tâm không như ý) thì nguy cơ không thể vào được cảnh giới xuất thế.
Trên đây là hành trang tối thiểu , những điều kiện nhất định người tu hành phải thành tựu để bước vào Xuất Thế Pháp .
Như vậy khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến đạo quả xuất thế...Một vị đã thành tựu Giác Lực khi nghe người đó thuyết về 12 phẩm của Tư Lương Vị đúng với tinh thần nêu trên, thì biết rằng người này đang thuyết đúng. Nếu người này không thuyết đúng những điều trên, thì người đó đang thuyết sai con đường đưa đến đạo quả xuất thế .
Câu 2) Khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến vô lậu... Một vị đã thành tựu Huệ lực căn cứ vào những cơ sở nào để biết rằng, lời tuyên thuyết đó là đúng hay sai (con đường đưa đến vô lậu) ??? Yêu cầu giải thích cụ thể !!!
Trả lời:
Huệ lực chính là sức mạnh từ hiểu biết của một người thành tựu Ngũ Căn và Ngũ Lực !!! Nhờ có Huệ lực người tu hành biết được con đường nào đưa đến hữu lậu, con đường nào đưa đến vô lậu !!!
Như vậy khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến vô lậu... Một vị đã thành tựu Huệ lực để biết rằng, lời tuyên thuyết đó là đúng hay sai, thì người này phải thuyết về Tam Vô Lậu. Đây là cơ sở để biết rằng người này thuyết sai hay đúng.
Bởi vì Tam Vô Lậu tức là khi mắt đối sắc, tai đối với âm thanh, mũi đối với mùi hương, lưỡi đối với các vị, thân đối với xúc chạm với nghĩ suy không khởi lên các quan niệm Hữu Lậu gọi là thành tưu Vô Lậu Giới.
Khi người này không khởi lên cái Hữu Lậu, tự nhiên tâm an lạc gọi là được định. Nhờ đó người này biết rất rõ con đường con đường nào đưa đến Hữu Lậu, con đường nào đưa đến Vô Lậu gọi là thành tựu Tam Vô Lậu.
Thành ra một ngườI nhiếp được cái căn, khi căn đối trần họ nhiếp được rồi, thì bây giờ cái Tín Tâm nó trở thành Căn và Lực. Nó biết chắc con đường này đã đúng gọi là Căn Lực bất thối. Như thế cái phương tiện mà đưa người ta vượt qua Ngũ Căn và Ngũ Lực thì lại là Tam Vô Lậu. Vì thế người nào thuyết Hữu Lậu thì đừng mong biết Đạo Quả Vô Lậu, cảnh giới Vô Lậu.
Vì bởi, người vượt qua Ngũ Căn, Ngũ Lực không phải bằng Ngũ Căn Ngũ Lực, mà người ta vượt bằng Tam Vô Lậu. Vì vậy khi nghe ai đó giảng nói về con đường đưa đến vô lậu... Một vị đã thành tựu Huệ Lực để biết rằng, lời tuyên thuyết đó là đúng hay sai. Nếu người này thuyết về Tam Vô Lậu. Đây là cơ sở để biết rằng người này đang thuyết đúng. Còn không thuyết về Tam Vô Lậu thì biết người này đang thuyết sai.
Câu 3) Bạn hãy đơn cử một đoạn kinh hội đủ yêu cầu Tam thân là: Danh thân, Cú thân, Hình thân...Và chỉ ra, cụ thể trong đoạn kinh đó, câu nào là Danh thân, câu nào là Cú thân và câu nào là Hình thân ???
Trả lời:
Danh thân, Cú thân và Hình thân, đây là phương tiện thiện xảo của các vị Pháp Sư.
Đầu tiên vị đó phải đưa ra mục tiêu gọi là Danh thân. Sau đó vị này triển khai giúp người đạt được cái mục tiêu mà mình đưa ra thì gọi là Cú thân. Cuối cùng một bài thuyết được coi là thành công hay đúng với ý nghĩa của một bài pháp khai thị. Nó giúp người nghe đạt được cứu cánh ban đầu mà mình đưa ra thì gọi là Hình thân.
Dưới đây là một đoạn kinh hội đủ yêu cầu Tam thân: (Trích kinh Tạp A Hàm Phẩm Cam Lộ)
“Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bây giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo:
Tỳ Kheo lìa Tứ Niệm Xứ là lìa Thánh Pháp Như Thật, người nào lìa Thánh Pháp Như Thật là lìa Thánh Đạo (Đoạn này thuộc về Danh thân).
Ai lìa Thánh Đạo là lìa Pháp Cam Lộ. Ai lìa Pháp Cam Lộ là không thoát khỏi sinh, lão, bịnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Ta nói người này không thoát được khổ.
Tỳ Kheo không lìa Tứ Niệm Xứ là không lìa Thánh Pháp Như Thật. Người nào không lìa Thánh Pháp Như Thật là không lìa Thánh Đạo. Người nào không lìa Thánh Đạo là không lìa Pháp Cam Lộ. Người nào không lìa Pháp Cam Lộ là thoát khỏi sinh, lão, bịnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Ta nói người này thoát khỏi các khổ (Hai đoạn trên thuộc về Cú thân).
Phật dạy kinh này xong, các Tỳ Kheo hoan hỷ, tín thọ phụng hành...” (Đoạn này thuộc hình thân).
Trên đây là những hiểu biết của con, còn nhiều điều chưa đúng, chưa đủ, mong Thầy và các HĐTM bổ khuyết và chỉ dạy cho con.
Con xin đảnh lễ Thầy 3 lễ !!!
Kính chúc Thầy luôn mạnh khỏe, trụ thế thật lâu !!!
Con, Lý Giác Thư