Tổng Kết Chủ Đề: Tứ Niệm Xứ
Tổng kết trò chơi trí tuệ số 04.2019 với chủ đề Tứ Niệm Xứ

Các bạn !!!
Sau mười bảy ngày triển khai !!! Hôm nay (26/10/2019) TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ – 04/2019 chính thức khép lại !!!
Suốt thời gian diễn ra, BQT đã nhận được hai mươi mốt (21) bài viết của HĐ khắp nơi tham gia gởi về, đó là: Đặng Văn Tuấn (Hà Nội), Lý Phạm Thuỳ (TP HCM), Lý Ca Ca (Cần Thơ), Lý Thiện Huệ (An Giang), Lý Ngộ Tuấn (An Giang), Lý Liêm (An Giang), Lý Vô Tướng (Cali), Lý Nhạn Ảnh (Quảng Nam), Lý Anh Tỵ (Quảng Nam), Lý Trần Mai (Quảng Nam), Lý Hậu Vệ (Cần Thơ), Lý Ngọc Thuý (Cần Thơ), Lý Thái Đăng (Buôn Ma Thuột), Lý Phương Anh (Hà Nội), Lý Chơn Thiệt (Cần Thơ), Lý Giác Thư (Hà Nội), Lý Thế Dân (Cần Thơ), Lý Viết Uyên (Buôn Ma Thuột), Lý Thiên Hoa (Cali), Nguyễn Tuấn Dũng (Không địa chỉ), Chánh Nghiệp (Không địa chỉ)…Trong đó có ba bạn trả lời hai lần !!!
Và, trong hai mươi mốt bài viết, có đến mười tám (18) vị HĐ trả lời thoả đáng các yêu cầu ba câu hỏi BQT đặt ra !!! Đây là một kết quả không ngờ, điều này cho thấy, các bạn đã nắm rất vững chủ đề mà chúng ta đang học tập trong mấy tuần nay !!! BQT xin tán thán chung tinh thần tu học của tất cả HĐ chúng ta !!!
Sau khi cân nhắc, đánh giá các bài viết !!!
-Để tuyên dương những vị HĐ đã có bài trả lời xuất sắc !!!
-Để động viên, khuyến khích tinh thần tu tập của HĐ chúng ta !!!
BQT thống nhất sẽ trao mười một phần quà cho các vị HĐ sau:
-Hà Nội: Lý Giác Thư & Lý Phương Anh
-Tây Nguyên: Lý Thái Đăng & Lý Viết Uyên
-Quảng Nam: Lý Anh Tỵ, Lý Nhạn Ảnh & Lý Trần Mai
-An Giang: Lý Ngộ Tuấn & Lý Thiện Huệ
-Cần Thơ: Lý Ca Ca & Lý Ngọc Thuý
-LÝ TỨ cũng sẽ dành hai phần quà đặc biệt, để tuyên dương sức tinh tấn của SH Lý Minh Tánh (94 tuổi ở Tây Nguyên), SM Lý Bích Huyền & SĐ Lý Liêm (An Giang) !!!
Xin gởi đến các bạn, các bài viết tiêu biểu của TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ – 04/2019 của HĐ chúng ta !!!
LÝ TỨ
1. Bài viết của Lý Thái Đăng
Kính Thầy!
Kính thưa các HĐTM!
Nhân dịp TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ – số 04/2019 bàn về TỨ NIỆM XỨ của Lý Gia đưa ra, trùng với sự kiện “HỘI SÁCH 2019” kỷ niệm 1000 năm Hoàng Thành Thăng Long, diễn ra tại Hà Nội vào tháng 10/2019. Theo dõi thông tin về “HỘI SÁCH 2019”, con rất cảm kích khi thấy những hình ảnh về cuốn PHẬT GIÁO VÀ THIỀN kịp trưng bày trong HỘI SÁCH và được đông đảo bạn đọc ưa thích chia sẻ và lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội.
Con xin tán thán sự kiện văn hóa lịch sử trọng đại này! Với cảm nghĩ:
HIỂN LONG!
Ngàn năm mở Hội Sách Thăng Long
Trương Tam, Lý Tứ nối mạch thông
Diệu Pháp Hiển bày xây Phật Quốc
Nhân duyên hội đủ Lý Hiển Long.
Sau đây là phần trả lời các câu hỏi.
1) Hãy giải thích: Vì sao một người tu hành trong Phật đạo, chỉ có thể thành tựu các đạo quả của Phật đạo, khi người ấy quán Tứ Niệm Xứ (như pháp)???
Trả lời:
Để thấu rõ Phật pháp nói chung, bài pháp “Bốn Niệm xứ” nói riêng, người tu hành phải vâng theo lời dạy của Bậc Đạo Sư, lấy sự đam mê, dấn thân và quên mình, để thực hiện đúng ba điều Phật dạy, gọi là VĂN, TƯ, TU!
Đối với Lý Gia, VĂN, TƯ, TU được Thầy Lý Tứ diễn nghĩa như sau:
– Điều gì đã biết, nhất định phải biết đến nơi đến chốn (tránh chuyện biết nửa vời)!!! (gọi là VĂN, hay DANH THÂN)
– Điều gì đã học, nhất định điều đó phải được tư duy thấu đáo, làm rõ nguồn cơn (tránh việc học vẹt)!!! (gọi là TƯ hay CÚ THÂN)
– Điều gì đã hiểu, nhất định phải ứng dụng nhuần nhuyễn vào thực tế cuộc sống (tránh việc hô hào suông)!!! (gọi là TU hay HÌNH THÂN)
Quay về thực hành VĂN, TƯ, TU cũng có nghĩa là quy y TAM BẢO! Quy y Phật Bảo (điều thứ nhất); Quy y Pháp bảo (điều thứ hai); Quy y Tăng bảo (điều thứ ba).
Nương vào “Ba điều diễn nghĩa” của Bậc Đạo Sư để trả lời câu hỏi, ta tuần tự triển khai như sau:
“Trước đây trên 2500 năm chúng sanh đau khổ vì sanh tử như thế nào thì 2500 năm sau chúng sanh đau khổ cũng giống như vậy, và trước đây chư Hiền Thánh dạy chúng sanh giải quyết đau khổ như thế nào thì bây giờ cũng chỉ giải quyết như vậy, cho tới tận cùng đời vị lai cũng chỉ giải quyết như vậy mới mong đoạn tận khổ đau” (Lý Tứ)
Con đường để (giải quyết đoạn tận khổ đau… thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn) đã được ghi lại, có tên “KINH NIỆM XỨ”! Mở đầu bài “KINH NIỆM XỨ” Thế tôn thuyết như sau:
“Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ”…
Căn cứ lời chơn thiệt của Thế tôn thì việc thấu rõ “Bốn Niệm xứ” là chìa khóa vàng duy nhất để mở cánh cửa đi vào “con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn”
Nghĩa là “Bốn Niệm xứ” như yết hầu án ngữ trên con đường độc nhất, không có con đường thứ hai ngoài “Bốn Niệm xứ” đưa đến Giác ngộ, Giải thoát và Trí tuệ.
Người tu hành mà không biết “Bốn Niệm xứ” thì chẳng thấu 37 phẩm, chẳng rõ Tứ Diệu Đế, đồng nghĩa với người đó đang đi trên các con đường Tà đạo, con đường dẫn tới bế tắc, không có lối ra.
Thấu suốt tầm quan trọng đặc biệt “Bốn Niệm xứ” trong Tứ Diệu Đế và 37 phẩm, 11 năm qua Lý Lão Sư cùng Lý Gia, đã không quản công cày xới trên bốn bảo điền (Thân bảo điền, Thọ bảo điền, Tâm bảo điền và Pháp bảo điền), làm sạch cỏ chúng sanh, tiêu trừ mầm bệnh, gieo giống bồ đề, ươm mầm trí tuệ, đâm rễ ngũ căn, phát sanh ngũ lực, nuôi dưỡng bằng thức ăn giới, định, tuệ vô lậu, vì vậy cây Bồ Đề lớn nhanh, trổ cành thất giác chi, ra quả bát chánh đạo… Cho đến nay hương thơm đã tỏa, hoa quả sum suê, trong vườn nhà Lý Gia.
Nói lên những điều này để chứng minh rằng, Đạo tràng Lý Gia như con tàu Bát Nhã đã đi đúng trên Đạo lộ an ổn, của Thanh tịnh, Niết Bàn… Bởi sự chỉ huy của Lý Lão Sư tài ba trong suốt 11 năm qua, đã huấn luyện:
– Điều gì (học trò Lý Gia) đã biết, nhất định phải biết đến nơi đến chốn (tránh chuyện biết nửa vời)!!!
– Điều gì (học trò Lý Gia) đã học, nhất định điều đó phải được tư duy thấu đáo, làm rõ nguồn cơn (tránh việc học vẹt)!!!
– Điều gì (học trò Lý Gia) đã hiểu, nhất định phải ứng dụng nhuần nhuyễn vào thực tế cuộc sống (tránh việc hô hào suông)!!!
Đối với “Bốn Niệm xứ” Lý Lão Sư đã phát động phong trào viết tiểu luận, trong đó “Tiểu luận: Tứ niệm xứ và sự cần thiết phải nắm vững bốn pháp này đối với một người mới bắt đầu tu tập trong Phật đạo” được thực hiện vào cuối năm 2015.
Đề tài “Tứ niệm xứ” này, đã được Lý Lão Sư tổng kết bằng một Tiểu luận mẫu mực, giảng giải vô cùng thâm sâu, chi tiết, rành mạch, đem đến lợi lạc không thể nghĩ bàn (được kết tập trong cuốn Anh Lạc Luận, bài 267) và bản đọc tại đường dẫn https://youtu.be/MqBH6Djipb4 …
Ngoài ra, để việc triển khai nhằm làm sáng tỏ Tứ Diệu Đế và 37 Phẩm… Thầy Lý Tứ còn thiện xảo lập bày phương tiện, với số lượng hàng ngàn bài giảng, bài viết phân tích tỉ mỉ, chia chẻ đến nơi đến chốn từng vấn đề cụ thể vi diệu trong Phật đạo.
Từ những thành công bước đầu trong vườn nhà Lý Gia, kết quả đã được nhân rộng và đem yêu thương đến với mọi nhà, một cách nhanh nhất nhờ ứng dụng công nghệ tiên tiến của thời đại, mà Diệu Pháp đã lan tỏa ra khắp mọi miền…
Trang website lytu.vn đã kịp thời ra mắt bạn đọc. Trang Facebook Lý Tứ; Lý Gia, cũng được lập ra để phục vụ việc tu học. Đặc biệt, chuyên mục “Độc giả hỏi, Lý Tứ trả lời” đã lôi cuốn được nhiều độc giả theo dõi và tăng tính hấp dẫn theo thời gian.
Mở chuyên mục này, Thầy Lý Tứ với Trí Tuệ của mình, quang minh chính đại, Trang Chủ Lý Gia đã sẵn sàng giải đáp mọi câu hỏi, thắc mắc liên quan đến Phật pháp.
Kết quả diễn ra thời gian qua cho thấy xuất hiện nhiều câu khéo hỏi, chứng tỏ diễn đàn đã thu hút nhiều bạn đọc tin cậy, và hoan hỉ nhất là cách khéo trả lời của Thầy Lý Tứ đã làm thay đổi thái độ của nhiều độc giả, từ coi thường đến tôn trọng; từ ngỡ ngàng, ngạc nhiên đến tâm phục, khẩu phục bởi Chân Lý và Trí Tuệ được phát ra từ trang nhà Lý Gia, Lý Tứ.
Diễn đàn Trí Tuệ (dưới dạng Trò chơi hay Hỏi Đáp…) vẫn đang duy trì hoạt động, rộng cửa tiếp đón các đề tài, câu hỏi về Phật đạo… và được công khai phổ biến rộng rãi trên mạng xã hội.
Phương pháp, hay cách thức tu học của Lý Gia cũng “không nhọc công tốn sức” chỉ cần biết cách thay đổi nhận thức trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp thì mọi lỗi họa sinh ra đều được hóa giải, an vui ngay tại chỗ.
Mỗi một học trò trong Lý Gia, khi đối duyên xúc cảnh, đều được Lý Lão Sư chỉ rõ cách huân tập để tạo phản xạ, là “quay về giải quyết nguồn tâm”, “giới hạn từ mặt da trở vào” (bởi vì trong đó có đủ bốn niệm xứ), mà không chạy ra ngoài…
Nhờ vậy mà người học chẳng tốn nhiều thời gian, công sức, chỉ hiểu đúng, làm đúng lời chỉ dạy của Thầy vào “bốn niệm xứ” thì ngay đó trong lòng rỗng rang thanh tịnh, bất kể người tu hành đó là ai!
Học trò Lý Gia lấy “lặng lẽ, quan sát, không kết luận” trên “Bốn niệm xứ” và đã ứng dụng thành công, mang lại Niết bàn an vui thực sự cho nhiều người trong cuộc sống mà không cần “dụng công” hay “lập hạnh” làm phép tu.
Thực hành như vậy, cũng có nghĩa là tu tập “Giác Quán Tam Muội”, theo ba bước (có giác có quán; không giác có quán; không giác không quán)…
Từ những kết quả đạt được, mỗi người có thể trải nghiệm thêm môn học “thấu thị môn”; “thẩm sát môn”, để tự thẩm định kết quả tu học… là biết rõ mình đang học ở cấp học nào, lớp học nào cụ thể trong Tứ Diệu Đế và 37 Phẩm… và tự biết đánh giá mình đang đứng ở đâu, trên 37 đỉnh kiến tánh cần phải vượt qua, từ đó thấu suốt ý nghĩa thế nào là GIÁC NGỘ, GIẢI THOÁT và TRÍ TUỆ trên con đường tu học!
Một người tự biết lặng lẽ… lấy thấy làm biết, thấu suốt điều mình đang học, hướng đến trên Bốn Niệm Xứ gọi là GIÁC NGỘ;
Quán sát bản thân, không còn bị ràng buộc bởi những quan niệm hư vọng trên bốn chỗ (thân, thọ, tâm, pháp) thì gọi là GIẢI THOÁT;
Không kết luận, tánh giác mới hiện…, từ đây người tu hành phát tâm Bồ đề dũng mãnh, học các phương tiện thiện xảo để giúp mình, giúp người, GIÁC NGỘ và GIẢI THOÁT trên bốn chỗ (thân, thọ, tâm, pháp) thì được gọi là Bồ Tát… có Trí tuệ.
Như vậy, một người tu hành trong Phật đạo, chỉ có thể thành tựu các đạo quả của Phật đạo, Giác ngộ, Giải thoát và Trí tuệ khi người ấy quán Tứ Niệm Xứ (như pháp)!
2) Nếu một người tu tập trong Phật đạo, không quán Tứ Niệm Xứ…Mà quán một niệm xứ khác (như quán cảnh duyên bên ngoài là thế giới hay bình, bàn…v..v…). Người ấy có thể thành tựu một đạo quả nào đó trong Phật đạo hay không??? Vì sao được??? Vì sao không??? Xin giải thích cụ thể!!!
Trả lời:
“Tứ Niệm Xứ” được Thế Tôn di huấn, như chỉ rõ bốn chỗ “chôn vàng” cho các thế hệ người tu học đào bới, làm giàu cho mình và cứu giúp cho người…
Thầy Lý Tứ cũng chỉ dạy học trò trong Lý Gia, quán từ mặt da trở vào để thấu tỏ (thân, thọ, tâm, pháp).
Khi sự việc xảy ra, thì quay về giải quyết nguồn tâm, không chạy ra ngoài (từ mặt da trở ra). Lấy Tâm thanh tịnh làm thước đo cho sự tiến bộ của người tu tập.
Nếu một người tu tập trong Phật đạo, không quán Tứ Niệm Xứ… Mà quán một niệm xứ khác (như quán cảnh duyên bên ngoài là thế giới hay bình, bàn…v..v…). Thì rõ ràng là đứa con hư, làm trái lời vàng ngọc của cha lành, cần phải quở trách, giáo dục!
Đương nhiên đứa con bất hiếu như vậy sẽ không biết cái gì là tài sản quý giá của cha mà thừa hưởng, nghĩa là không thành tựu bất kỳ một đạo quả nào đó trong Phật đạo, dù nhỏ nhất!
Nếu nói “khổ” mà không chỉ ra được khổ xảy ra ở trên Thân, Thọ, Tâm, hay Pháp, thì từ “khổ” đó chỉ là một âm thanh trống rỗng, “khổ” đó không có đế. Kinh gọi là “Hàng phàm phu có khổ, không đế”!
Nếu nói giải thoát mà không biết về sự trói buộc ở bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì chính kẻ đó đang là nô lệ cho (thân, thọ, tâm, pháp) . Kinh gọi là “Hàng phàm phu có tập không có đế”!
Nếu nói là DIỆT… mà không biết bốn chỗ trú ẩn của “giặc phiền não” đang chiếm đóng trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì DIỆT chỉ là văn tự, khẩu hiệu suông.
Và đương nhiên trường học ĐẠO ĐẾ không thể có mặt đối với những “học trò” đang bị “giặc phiền não” giam cầm, tù đày hay quản thúc!
Người tu tập trong Phật đạo cũng giống như người lính chống “giặc phiền não”, khi ra trận mà không xác định rõ “giặc phiền não” đang ở đâu, do đâu mà sanh, làm sao mà diệt?… thì bị thất bại bỏ chạy, hoặc bị bắt làm tù binh là điều không tránh khỏi.
Quả thực, nếu không biết Tứ niệm xứ thì mọi hoạt động (tu tập) sẽ không biết sẽ diễn ra ở đâu? Nương vào đâu mà giải quyết? Điều này cũng giống như muốn xây dựng ngôi nhà cao tầng mà không có (đế) thiết kế nền móng, hay trụ cột.
Hệ quả của việc tu hành sai (như đã nêu trên) tất yếu cho ra kết quả sai. Phiền não ngày càng tăng, tam độc phát tác càng mạnh là việc khỏi bàn cãi, cũng giống như trung tâm điều khiển máy tính (CPU) mắc lỗi từ hệ thống mà không gặp rắc rối, mới là chuyện lạ.!!!
Người tu tập trong Phật đạo, không quán Tứ Niệm Xứ… Mà quán một niệm xứ khác (như quán cảnh duyên bên ngoài là thế giới hay bình, bàn…v..v…). thì chẳng khác nào người đi buôn thiếu trí, mua phải “vịt giời của Cuội” cho đến hết ngày mới hay bị Cuội lừa, vịt giời… bay mất!
Để nhận ra việc tu học xa rời Tứ Niệm Xứ, không mang lại hiệu quả, mà tốn công vô ích, mất thời gian như câu chuyện “mua phải vịt giời”, hay như kiểu trẻ em thích “ngậm vú giả”… Ta có nhiều cách thẩm định. Nhưng cách trước nhất, là lấy ngay bản “KINH NIỆM XỨ” để làm thước đo.
Kinh dạy: “Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn”. (Trích Kinh Niệm Xứ – Satipatthàna sutta)
Căn cứ lời kinh, thì khoảng thời gian trong vòng bảy ngày đến bảy năm: Một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Cột mốc về thời gian (từ bảy ngày đến bảy năm) được ghi rõ trong “KINH NIỆM XỨ” là lời chơn thiệt, là vị trọng tài khách quan đáng kính!
Đây là khoảng thời gian nhắc nhở, giúp cho những ai đã tu tập từ 7 ngày đến tối đa vượt qua cột mốc 7 năm mà vẫn còn khổ đau, phiền não, kiết sử, lậu hoặc… thì cần phải coi lại quá trình tu tập của mình là sai MỤC TIÊU, thiếu PHƯƠNG PHÁP hay vì lý do nào khác…!!!???
Việc xem xét, tự kiểm định mình là vô cùng cần thiết. Cũng như người bệnh cần phải xem lại việc chữa bệnh nhiều năm sao mà không khỏi, cần phải tự hỏi “Mình đang chữa bệnh hay đang nuôi bệnh đây”! Từ đó mà có thái độ lặng lẽ quan sát bản thân… Tại sao mình đã uống thuốc đầy đủ, công phu ngày đêm, đã thực hiện phác đồ điều trị “như quảng cáo” mà sao bệnh không hết?
Trả lời được câu hỏi này cũng đồng nghĩa như là có được “mầm giác ngộ” trong đời!
Mặt khác, cột mốc về thời gian từ bảy ngày đến bảy năm cũng như tấm gương sáng, chân thực để người tu hành soi lại mục tiêu đề ra, phương pháp tu tập và kết quả. Nghĩa là phương pháp tu tập này tối đa (sau 7 năm) có đưa đến an vui Niết bàn hay không? Hay là vẫn còn Phiền não khổ đau trong lòng ta…
Nếu nhận ra sự nhầm đường, lạc lối hay cảm nhận bị lừa dối, thì nhớ ngay câu chú “Quay đầu là bờ!”… hoặc chạy ngay đến trung tâm “Bốn niệm xứ” để được… cứu hộ, cứu nạn kịp thời!
Trong đời sống, người nhắm sai mục tiêu, (nhắm ngoài Bốn niệm xứ) thì cũng như người lầm đường lạc lối, chẳng bao giờ đi đến đích, cho dù vượt qua 7 năm, 70 năm, hay 7 đại kiếp thì cũng không khác.
Như người nông dân không biết ruộng của mình ở đâu thì chẳng có chỗ để canh tác… Người đi làm thuê mà làm không biết chỗ cần làm thì chẳng ai trả tiền công.
Trường hợp khác, tuy xác định đúng mục tiêu, nhưng lại thiếu phương pháp, phương tiện, cách giải quyết sai lầm, thì cũng không thể đi đến nơi cần đến, như người đi trên chiếc xe chết máy, mà không có đồ thay, hay bó tay hết sửa.
Cũng như nhà nông chọn giống sai thì chẳng cho ra kết quả mong muốn, vật nuôi chưa xử lý mầm bệnh thì ổ dịch lây lan, có khi phá sản…Bón phải phân giả, phun thuốc giả thì… cây từ từ vàng lá và… chết queo!
Trong lĩnh vực tu hành cũng không khác, việc lấy bốn bệnh (Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt) làm phép tu, hình như đang là một tình trạng phổ biến, có lẽ phong trào đã lên đến cao trào, đỉnh điểm!!!
Hệ quả của việc lấy bốn bệnh (Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt) làm phép tu thì đi vào bế tắc, nhân, ngã… hiện hình, kiến giải chẳng thông, mắc kẹt tứ cú, hiện đủ ba thời…ngũ ấm che mờ, ngũ uẩn tích đủ… do vậy mà phiền não, khổ đau, mê mờ, cột trói…không thoát ra được… càng tu bệnh càng trầm trọng!
Nếu ai đó chưa nhận ra điều này mà vẫn cố chấp, lấy bệnh làm phép tu, nuôi bệnh làm tự hào thì… gọi là… tu hành, ĐIÊN ĐẢO! Chẳng khác người bị khiếm khuyết Ý căn, ngày qua tháng lại, cứ “Ù Ù CẠC CẠC TRONG CƠN TÙY MỘNG”! (Tác giả Thích Mật Thể).
3) Xin bạn cho biết, mục tiêu cuối cùng của phép quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu hành “thành tựu niệm xứ nào” trong tâm trí ??? Vì sao như vậy ???
Trả lời:
Mục tiêu cuối cùng của phép quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu hành thành tựu kết quả, được ghi rõ ở đầu bản KINH NIỆM XỨ là “đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn”.
Bài kinh KINH NIỆM XỨ không dài, nhưng sau mỗi lời dạy thực hành phép quán trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp, đều đưa đến mục tiêu (được lặp lại 16 lần trong bản kinh) là: “Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời”! Tức là thành tựu VÔ NIỆM trên “bốn niệm xứ”.
Vô niệm trên Thân, nghĩa là thấu tỏ “Thân này không phải của ta, là ngã của ta, là tự ngã của ta”!
Vô niệm trên các cảm Thọ, Tâm và Pháp cũng như vậy!
Sau phép quán, ta nhận ra rằng: Thân, Thọ, Tâm, Pháp chỉ là danh tự, khi mê thì (Thân, Thọ, Tâm, Pháp) trở thành pháp cấu.
Kinh dạy: “Các pháp theo duyên sanh; pháp theo duyên mà diệt”… do vậy mà chẳng thể làm chỗ nương tựa! Thấu suốt được điều này thì gọi là Giác ngộ, “niệm mê” chẳng khởi!
Chẳng khởi “niệm mê” trên “Thân”, thì ngay đó chẳng phiền chẳng não, chẳng kiết chẳng sử, chẳng còn rỉ chảy hay mê mờ trên “Thân”, gọi là Thân giải thoát!
Chẳng khởi “niệm mê” trên “Thọ”, “Tâm” và “Pháp”, thì cũng như vậy!
“Bốn niệm xứ” có thể ví như “đầu nổ” hay “thuốc cháy” của quả tên lửa hành trình, có 37 mô đun, được ghép thành 3 tầng (tư lương vị, kiến đạo vị, tu đạo vị).
“Tư lương vị” và “kiến đạo vị” sẽ lần lượt cháy hết trong môi trường hữu lậu… để đẩy tầng “tu đạo vị” đi vào không gian vô lậu. Khi đủ nhân duyên (điều kiện) thì đầu đạn được kích nổ.
Khi đầu đạn phát nổ thì toàn bộ tầng còn lại của quả tên lửa (Tu đạo vị) sẽ bùng cháy. Lúc đó gọi là “Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố…”
“Bốn niệm xứ” không những là “thuốc cháy” của Tứ Diệu Đế, 37 Phẩm, mà luôn có mặt trong tất cả các bản kinh hay lời dạy của Phật, những ai biết rõ về nó sẽ vô cùng lợi lạc.
Gọi là “con người” bởi có đầy đủ thân và tâm. Có thân thì có thọ, có tâm là có pháp, (Tứ niệm xứ xuất hiện) hoặc xét trong 5 món Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thì Sắc chỉ về Thân; Thọ, Tưởng, Hành, Thức chỉ về Tâm, đầy đủ thân, tâm thì đó là con người có đủ Tứ niệm xứ.
Khi thực hành chọn Thân làm niệm xứ trú tâm quan sát, ta thấy rằng các cảm thọ cũng dựa trên thân này mà xuất hiện, Thân và Tâm nương tựa lẫn nhau mà tồn tại, khi Thân không còn thì Tâm cũng mất, dục ái cũng bặt; xét về pháp thì bốn món cũng là các pháp;
Hoặc khi quán niệm hơi thở, ta thấy hơi thở duy trì sự sống, nên hơi thở liên quan đến Thân; khi thở vô, thở ra biết rõ dài ngắn, mạnh yếu, nên hơi thở thuộc về cảm thọ; tâm thanh tịnh hơi thở êm dịu, tâm sân hận hơi thở dồn dập liên quan đến trạng thái của Tâm; pháp quán niệm hơi thở cũng là một Pháp.
Như vậy bốn món Thân, Thọ, Tâm, Pháp luôn có mặt và móc xích lẫn nhau (như sản phẩm 4 trong 1), việc chia thành bốn món là giả lập, nhằm giải quyết vấn nạn của các thừa, giống như có ông tên là NIỆM sau đó ông mê trên 4 chỗ mà có bốn tên gọi khác nhau. Do vậy cách giải quyết (của từng thừa) nhằm vào từng chỗ mê của ông thì cuối cùng cũng đưa đến kết quả là giải quyết VÔ NIỆM trên cả bốn xứ (Thân, Thọ, Tâm, Pháp). Bốn xứ đồng thanh tịnh.
Khi thấu rõ ý nghĩa của ‘Bốn Niệm Xứ” ta có thể trạch pháp để làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong Phật đạo, từ mỗi bài kinh, đến từng câu kinh ta cũng nhận thấy các món (Thân, Thọ, Tâm, Pháp) ẩn chứa “thuốc cháy” trong đó.
Cách tu của Nhị thừa: “Xuất ngũ ấm gia” hay tu chứng “Ngũ uẩn giai không”, bản chất cũng là thực hành Tứ niệm xứ.
Sắc uẩn thuộc về vật chất liên quan đến Niệm thân;
Thọ uẩn thuộc về cảm giác liên quan đến Niệm thọ; Tưởng uẩn thuộc về sự suy lường liên quan đến Niệm tâm;
Hành uẩn và Thức uẩn thuộc về sanh pháp liên quan đến Niệm pháp;
“Xuất Tam giới gia”, bản chất cũng là thực hành Tứ niệm xứ.
Sắc giới thuộc về vật chất liên quan đến Niệm thân;
Dục giới thuộc về ham muốn liên quan đến Niệm thọ;
Vô sắc giới thuộc vô vi liên quan đến Niệm tâm, Niệm pháp.
Người tu pháp cảm thọ (Duyên Giác) tập trung quán Lý duyên khởi để thấy rõ thật pháp là không pháp.
Các cảm thọ sinh khởi trên các căn (thuộc thân) nhưng cảm nhận lại thuộc về tâm, như vậy pháp quán này cũng không rời Tứ niệm xứ.
Y cứ trên pháp quán 12 nhân duyên ta cũng có thể chỉ ra sự có mặt của Tứ niệm xứ: Thức liên quan đến tâm; Danh sắc, liên quan đến thân; Thọ liên quan đến cảm thọ…; Duyên thuộc về pháp.
Vòng quay 12 nhân duyên thực chất là vòng luân hồi của chúng sanh trong ba cõi, là vòng quay của vô minh, chỉ cần chấm dứt một “duyên” bất kỳ trong vòng quay đó thì vô minh chấm dứt, hay chỉ cần chấm dứt “một niệm xứ” trên 12 nhân duyên thì kết quả cũng không khác.
Nói cho cùng thì vấn đề của ba thừa là tập trung giải quyết “NIỆM MÊ” trong tâm để dứt tánh phàm phu, như “giặt sạch tấm vải còn cấu uế”, để “Như Lai vẽ các hình” giai đoạn này gọi là “Minh tâm kiến tánh” tức Vô Niệm hay Đảo Bỉ Ngạn.
“Vô niệm tức niệm Nam Mô; Vô tâm đích thực qua bờ bên kia”! (Lý Tứ)
Xin phép được kết luận bằng bài VÈ TU TẬP (Trở về cội nguồn) như sau:
Niết Bàn -Như Vầy!
Làm sao mà thấy?
Hãy nhớ nắm lấy
Chìa khóa ý căn
Mở chỗ giam cầm
Thân, thọ, tâm, pháp
Lặng lẽ quan sát
Đừng kết luận gì!
Nếu mà phạm quy
Tánh giác không hiện
Nhớ trong đời sống
Từ bỏ suy lường
Nói im tỏ tường
Xa rời hí luận
Tịch diệt quan niệm
Lòng chẳng ngã nhân
Niết bàn xa? Gần?
Khỏi cầu cũng hiện./.
Con xin đảnh lễ Thầy ba lễ!!!
Con, Lý Thái Đăng
2. Bài viết của Lý Phương Anh
Thầy ơi,
Con xin gửi Thầy trả lời 3 câu hỏi trong trò chơi trí tuệ lần này về Tứ Niệm Xứ ạ.
1) Hãy giải thích: Vì sao một người tu hành trong Phật đạo, chỉ có thể thành tựu các đạo quả của Phật đạo, khi người ấy quán Tứ Niệm Xứ (như pháp) ???
Người tu hành trong Phật đạo là nhằm 2 mục đích: Tự giúp mình hết khổ được giải thoát và sau giúp người cũng được hết khổ giải thoát như mình. Ngoài 2 mục đích này không có mục đích nào khác. Vì thế mà gọi đạo Phật là Đạo Diệt Khổ, Đạo Giác Ngộ, Đạo Giải thoát, Đạo Trí Tuệ. Các đạo quả của Phật Đạo cũng là những đạo quả viên mãn từng tầng bậc Diệt khổ, Giác ngộ, Giải thoát, Trí Tuệ.
Vậy muốn biết vì sao một người tu hành trong Phật Đạo chỉ có thể thành tựu các đạo quả của Phật đạo khi người ấy quán Tứ Niệm Xứ, chúng ta cần xem Tứ Niệm Xứ có liên hệ như thế nào với 4 tầng bậc này?
Tầng thứ nhất Diệt khổ:
Trong Khổ đế của Tứ diệu đế, Phật đã khái quát tất cả nỗi khổ trên đời này và chia ra thành tám loại gồm có: Sanh khổ (đau khổ khi sinh), lão khổ (khổ khi già), bệnh khổ (khổ khi bệnh), tử khổ (nỗi kinh sợ cái chết), ái biệt ly khổ (cái khổ vì phải chia ly), cầu bất đắc khổ (khổ vì thất vọng), oán tắng hội khổ (cái khổ vì oán thù phải hội ngộ), ngũ ấm xí thạnh khổ (khổ với cái thân ngũ ấm bất bình thường).
Suy nghĩ kĩ hơn vào bản chất của 8 loại khổ này sẽ thấy một thực tế là khổ đau xét cho cùng đều y nơi bốn món mà phát sinh: Khổ đau từ thân, khổ đau do các cảm thọ, khổ đau khởi từ tâm và khổ đau do chấp nhất những quan điểm quan niệm. Nếu không mê cái thân này thì đâu có khổ, cũng như vậy nếu không mê những cảm thọ này, tâm này, những nhận thức nghĩ suy này thì sự khổ đau đâu có hiện.
Như có người bị cái dằm đâm hay ung nhọt làm đau, sẽ không thể cứu chữa nếu như không lần về chính chỗ nơi cái dằm cắm rễ, đó là điều kiện đầu tiên để có thể nhổ bỏ cái dằm. Thì cũng vậy, tứ niệm xứ là bốn nơi chốn làm chúng sanh khổ và tứ niệm xứ cũng chính là chiếc chìa khoá để ba thừa mở khoá diệt khổ.
Tầng thứ 2 Giác ngộ:
Sanh tử phiền não là khổ, mê lầm lậu hoặc kiết sử là tập, thân thọ tâm pháp là đế (nơi vô minh bắt rễ). Đã tìm được nơi chốn làm cho mình sanh khổ, khi quán sát người tu hành tuỳ vào căn cơ sẽ thấy được một niệm xứ chính “niệm xứ trước giờ sinh sự hơn cả với mình” trong bốn niệm xứ. Tiếp tục đào sâu quán sát tư duy cho đến tận nguồn cơn người ấy sẽ có được hiểu biết sáng rõ rốt ráo về bản chất của niệm xứ ấy. Kết hợp với sự quan sát ba niệm xứ còn lại có tác dụng hỗ trợ thêm cho niệm xứ chính, làm niệm xứ chính rõ nghĩa hơn, người ấy giác ngộ mối nguy hại, giác ngộ nguyên nhân sinh khởi, quá trình tích tụ và từ đó thấy được con đường tịch diệt kiết sử lậu hoặc nơi bốn niệm xứ. Giống như một người gỡ đám dây rối, lần mò đến chỗ gút thắt cũng là lúc người ấy biết phải cởi bỏ gút thắt như thế nào.
Chính trong nghĩa này mà tứ niệm xứ là nhân để ba thừa nương đây được quả giác ngộ. Giác ngộ là tìm thấy phương tiện giải quyết vấn đề cho riêng mình, biết nơi mình đến, con đường để đi, phương tiện đi lại và thấy rõ các chướng ngại cần vượt qua.
Tầng thứ 3: Giải thoát
Sự giác ngộ thấu suốt nguyên nhân sinh khởi, nguyên nhân tịch diệt của Tứ niệm xứ ở giai đoạn vừa nêu trên là cơ sở để có tâm an định.
Khi đã thấu rõ bản chất của thân biết rằng thân này vô thường, chỉ là do bốn đại chủng làm thành, tuân theo quy luật sanh lão bệnh tử, thấu rõ bản chất của các cảm thọ biết rằng cảm thọ không thật chỉ do các duyên hội hoặc ái tâm sanh, thấu rõ bản chất của tâm chỉ là các hiệu ứng tình cảm giả tạm chứ trước nay thanh tịnh, thấu rõ bản chất của các pháp chỉ là quan điểm quan niệm nay đúng mai sai, chỗ này thế chỗ kia khác, bị chi phối bởi không gian thời gian, không phải chân lý mà chỉ do phân biệt hư vọng mà thành. Vì thấu rõ như thế mà không còn bị trói buộc chấp nhất thủ giữ thân, thọ, tâm, pháp, được giải thoát Niết bàn an tịnh.
Tầng thứ 4: Trí tuệ
Giống như người trước bị bệnh nay đã chữa khỏi phát tâm đi học Y mong giúp cho nhiều người cũng được nhanh chóng khỏi bệnh khoẻ mạnh như mình. Bồ tát sau khi giải quyết rốt ráo nơi mình, từ chỗ trí tuệ sơ khởi này người ấy phát tâm Bồ Đề nguyện độ hết thảy chúng sanh, phá tan vô minh trụ địa thành tựu Phật tri kiến.
4 ổ dịch của chúng sanh giờ đây trở thành bốn nơi làm việc, bốn đạo tràng của người ấy, giúp người ấy thành tựu sứ mệnh ”nghề y”.
Tứ Niệm xứ giờ đây như là bảo bối là tấm bản đồ trong chéo áo làm cơ sở giúp vị ấy thấu thị, thẩm định đối tượng biết họ đang ở căn trí điểm phát xuất nào từ đó có chánh tri kiến, chánh tư duy phát sinh chánh phương tiện, chánh ngữ. Người ấy biết lắng nghe, biết chắt lọc và nắm bắt quyết định nghĩa nơi chúng sanh, nhìn thấy chỗ vào các tam muội môn, giải thoát môn trong quá trình hoá độ.
Như vị bác sĩ càng học rộng biết sâu càng giỏi tay nghề chữa bệnh, càng chữa được nhiều bệnh nhân hiểu biết kinh nghiệm lại càng tăng, hiểu biết kinh nghiệm càng tăng học vị học hàm của vị bác sĩ ấy càng thăng tiến. Thì cũng như vậy, từ nơi bốn niệm xứ mà trí tuệ và công đức của Bồ tát phát sanh, giúp vị ấy tiến dần lên những đạo quả về Vô thượng bồ đề.
Nói chung Tứ niệm xứ chính là cội nguồn của đạo pháp, là con đường đưa một phàm phu mê lầm đến bậc Thánh giải thoát an vui, là cơ sở để Bồ tát hành đạo, viên thành mục tiêu cao nhất của trí tuệ là sự tương thông tâm ý, chèo đò đưa người qua sông.
2) Nếu một người tu tập trong Phật đạo, không quán Tứ Niệm Xứ…Mà quán một niệm xứ khác (như quán cảnh duyên bên ngoài là thế giới hay bình, bàn…v..v…). Người ấy có thể thành tựu một đạo quả nào đó trong Phật đạo hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Xin giải thích cụ thể !!!
Mục đích của tu Phật là đời sống được an vui bình thản. Mà bản chất của sự an bình tuyệt đối nằm trong bản thể sâu thẳm của tâm chứ không nằm ở bên ngoài thế giới cảnh duyên.
Định trong phật giáo cũng là định trong giác ngộ, định do giác ngộ lẽ thật mà tâm không loạn động, có nghĩa nhân nơi thấu suốt bản chất sự việc hay một pháp nên tâm không chạy theo pháp hoặc bị loạn động bởi cảnh duyên.
Vì vậy chỉ khi thấu đáo nơi bốn niệm xứ thì tâm mới vĩnh viễn Niết bàn an ổn. Còn nếu ra công tìm kiếm nơi Pháp giới mênh mông ngoài kia thì chỉ uổng công vô ích. Giống như đánh giặc mà không biết giặc là ai, ở đâu, không nhằm vào đồn giặc mà đánh thì hoạ có thắng được chăng?
3) Xin bạn cho biết, mục tiêu cuối cùng của phép quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu hành “thành tựu niệm xứ nào” trong tâm trí ??? Vì sao như vậy ???
Như đã trình bày ở trên, nhận thức của người tu hành sẽ thay đổi ngày càng rộng hơn sâu hơn về bốn niệm xứ. Từ nhận biết nơi khổ đau sinh khởi, cho đến lý duyên thấy bản chất, cuối cùng là thấu rõ thiệt tướng.
Vì vậy có thể nói ở giai đoạn đầu, Pháp niệm xứ là chốt cuối cùng của phép quán, để ý ta cũng thấy Phật tuyên pháp niệm xứ sau cùng các niệm xứ khác. Khi Pháp niệm xứ thành tựu, người tu hành sẽ giác ngộ những suy nghĩ, so sánh, phân biệt, định đặt giá trị, những quan điểm quan niệm đều chỉ là sự mê muội từ nội tâm của chúng sanh, bản chất các trần không hề có.
Thấu suốt cơ chế “tâm sinh pháp sinh” – “pháp sinh tâm sinh”, cũng là lúc người tu hành tâm pháp hết sanh, tâm không pháp không.
Tâm pháp không sanh, thanh tịnh trước muôn cảnh duyên, phiền não trụ địa đã mất, tiếp tục lặng lẽ quan sát bốn niệm xứ đến một lúc người tu hành mới bỗng trực nhận thật nghĩa của pháp trong pháp niệm xứ và hiểu ra thật tướng của bốn niệm xứ. Pháp trên thân, pháp trên thọ, pháp trên tâm hay pháp trên pháp cũng là pháp. Bản chất bốn niệm xứ không tự có, chỉ do vô minh che mờ mà như vậy và cũng để bứng rễ vô minh mà phải như vậy …
Thật tướng của bốn niệm xứ ra ngoài quyền ngoài thiệt, ra ngoài giả ngoài chân. Lúc này người ấy thực sự rốt ráo xả, không còn chấp trước hay bị trói buộc bởi bất cứ thứ gì, mới thực sự bắt đầu phát sinh “trí tuệ nơi tự thân”. Bốn niệm xứ tuy màu nhiệm, sâu thẳm nhưng cũng chỉ là pháp căn bản, bước đầu tiên trên con đường tiến về Nhất thiết trí.
Vì thế hỏi mục tiêu cuối cùng của phép quán Tứ niệm xứ là thành tựu niệm xứ nào trong tâm trí thì câu hỏi này không có câu trả lời, vì nếu có câu trả lời, nếu còn một niệm xứ nào trong tâm trí thì có nghĩa là phép quán chưa thành tựu, mục tiêu cuối cùng chưa đạt được. Có chăng nếu được tạm đặt tên cho một niệm xứ thứ năm thì niệm xứ ấy là niệm xứ Trí, vì bởi vô niệm vô xứ mới là Trí xứ.
Thầy chỉ dạy thêm cho con tỏ tường ạ,
Con chào Thầy,
Lý Phương Anh
3. Bài viết của Lý Giác Thư
Con kính lạy Thầy !
Thưa các thành viên BQT, và tất cả HĐTM !
Con xin tham gia trả lời câu hỏi TCTT – 04/ 2019
Câu1) Hãy giải thích: Vì sao một người tu hành trong Phật đạo, chỉ có thể thành tựu các đạo quả của Phật đạo, khi người ấy quán Tứ Niệm Xứ (như pháp) ???
Trả lời:
Một người tu hành trong Phật đạo, để thành tựu các đạo quả của Phật đạo đều phải hiểu rõ Tứ Niêm Xứ và tu tâp nó. Bốn món này thuộc về Tư lương vị, tức hành trang ban đầu cần phải đi xa. Nếu chưa thành tựu, việc ra đi sẽ không thể thực hiện được.
Trong Phật đạo có bốn yêu cầu để một người giác ngộ, đó là giác ngộ thân, giác ngộ cảm thọ, giác ngộ tâm và giác ngộ pháp, thì bốn niệm xứ như bốn tòa nhà làm nên kiến trúc Phật giáo và như bốn mảnh ruộng trồng lên cây giác ngộ. Thành ra tứ niệm xứ chi phối toàn bộ tầng cao của Phật đạo.
Thứ nhất, có nghĩa rằng người này khổ vì người này có thân, có cảm thọ, có tâm và có sinh pháp, (sinh các quan niệm). Nếu người này không có thân, không có cảm thọ, không có tâm, không sanh pháp thì người này không khổ.
Như vậy ta thấy Tứ niệm xứ chi phối toàn bộ Khổ Đế, do đó nếu người này giải quyết được bốn niệm xứ, thì bốn món khổ này không xuất hiện cho nên nó là chìa khóa, đóng, mở cửa Niết Bàn. Như vậy khổ hay Niết Bàn, an vui là đều ở bốn nơi chốn thân, thọ, tâm và pháp.
Thứ hai về Tập Đế, sở dĩ người tu hành có tham, kiết sử, lậu hoặc, phiền não là vì người này có thân. Nếu người này không có thân hoặc cái thân không chi phối thì kiết sử, lậu hoặc, phiền não sẽ không hiện.
Sở dĩ có kiết sử, phiền não, lậu hoặc là vì người tu hành có cảm thọ như ưa mát ghét nóng hay ưa mát ghét lạnh chính vì vậy kiết sử, phiền não, lậu hoặc sẽ hiện. Nếu người tu hành không có cảm thọ hoặc chế ngự được cảm thọ hoặc thấy được bản chất của cảm thọ, giác ngộ được bản chất không tánh của cảm thọ thì kiết sử, phiền não, lậu hoặc sẽ không xuất hiện.
Thứ ba, người tu hành khổ ở đâu thì sẽ vui ở đó, chính thân, cảm thọ, tâm và pháp làm cho người này khổ, sinh kiết sử, phiền não, lậu hoặc. Cũng ngay bốn món đó mà chấm dứt kiết sử, phiền não, lậu hoặc thì người này thấy an vui.
Cho nên chứng diệt đế cũng trên bốn niệm xứ này. Tức là người này không khổ vì thân, cảm thọ, tâm và pháp. Chấm dứt bốn món này, thấy được tính chất của bốn niệm xứ này, hay giác ngộ được bản lai của cả bốn niệm xứ thì Niết Bàn sẽ hiện.
Như vậy Tứ Niệm Xứ chi phối luôn cả Diệt Đế, và cuối cùng Đạo Đế là học trí tuệ và trí tuệ cũng là học sâu của bốn món này để thấy được thiệt tướng của thân, thọ, tâm và pháp. Tứ niệm xứ chính là giáo lý căn bản trong phần Đạo đế, có hiểu được giáo lý này một cách tường tận thì sự tu hành mới vững chắc được.
Như vậy ta thấy rằng bốn niệm xứ đầu tiên: Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ và Pháp niệm xứ nó vừa là nền tảng, nó vừa là cốt lõi để làm nên tầng cao của Phật đạo, do đó tu tập trong Phật đạo không ra ngoài bốn niệm xứ.
Câu 2) Nếu một người tu tập trong Phật đạo, không quán Tứ Niệm Xứ … Mà quán một niệm xứ khác (như cảnh duyên bên ngoài là thế giới hay bình, bàn …v..v…) . Người ấy có thể thành tựu một đạo quả nào đó trong phật đạo hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Xin giải thích cụ thể !!!
Trả lời:
Nếu người tu hành trong Phật đạo, không nhắm đến bốn nơi chốn thân, thọ, tâm, pháp để giải quyết những thấy biết hư vọng ngự trị trong nó, nhằm mở cửa Niết Bàn, lại vọng tìm một đối tượng khác bên ngoài thân tâm để cầu mong cứu cánh, Phật đạo gọi đó là tà kiến, tà tinh tấn, người này không biết hướng tâm. Việc này, giống như một người xa nhà nhiều năm tháng, nay muốn về lại căn nhà của mình, khi đến nơi, người ấy lại quay lưng trước cưa. Nếu sự việc này xảy ra, người ấy tuy có về đến nơi, nhưng không thể bước vào trong nhà !!!
Đạo phật là đạo Diệt khổ, là Đạo giác ngộ là đạo giải thoát và là đạo trí tuệ…
Tứ Niệm Xứ chính là Khổ Đế;
Tứ Niệm Xứ chính là Thiền Xứ;
Tứ Niệm Xứ chính là Tập Đế và Dứt Tập Đế;
Tứ Niệm Xứ Chính là Đạo Đế và Tứ Trí Đế;
Tứ Niệm Xứ chính là Trung Đạo để Chư Phật mở Từ Bi Tâm khai phát Chân Giáo…
Vì thế muốn thành tựu Thiền Định, Tứ Đế, các quả vị của Phật Đạo cho đến các thứ Niết Bàn cùng Thật Trí, người tu hành không thể tìm kiếm những thứ này ngoài Tứ Niệm Xứ.
Câu 3) Xin bạn cho biết, mục tiêu cuối cùng của phép quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu hành “thành tựu niệm xứ nào” trong tâm trí ??? Vì sao như vậy ???
Trả lời:
Mục tiêu cuối cùng của phép quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu hành thành tựu thanh tịnh bổn tâm, chứng hai vô ngã: Tâm thanh tịnh, pháp thanh tịnh là con thuyền bát nhã đưa người tu hành từ bờ mê đến bến giác.
Ở đây ta thấy giác ngộ là yếu tố sống còn trong tu tập. Giác để trí này đến gần với chân lý, ngộ để tâm này nắm bắt chân lý. Giác ngộ để xác chứng sự việc, giác ngộ để biến cái hiểu thành cái thấy, biến cái ngu thành trí, biến mê thành giác, biến lầm thành ngộ… Một khi thật thấy rồi, mới biết mọi thứ chẳng thể được, vì thế Tứ Niệm Xứ cũng chẳng thể được.
Giác ngộ sẽ biến đời sống của người tu hành với chân lý không còn là hai pháp. Vì đời sống và chân lý không còn là hai pháp nên tất cả vô sở đắc. Vì vô sở đắc nên vô sanh, vì vô sanh nên vô diệt, vì vô diệt nên vô tánh, vô tướng, vô trụ, vô niệm, vô xứ.
Nói tóm lại, mục tiêu của phép quán Tứ Niệm Xứ là tận dụng của trí tuệ để tìm kiếm con đường giác ngộ. Sau khi giác ngộ mới biết rằng, bổn lai thân, thọ, tâm, pháp đồng như hư không.
Con xin thay lời kết bằng BÀI KỆ KHAI TÂM
(Trích Anh Lạc Luận II – Lý Tứ)
“Khi mê, thấy có sắc không
Ngộ thời, tâm diệt sắc vong tức thì
Ngộ thời, sắc chẳng khác không
Mê thời, không ấy cũng thành sắc kia
Ngộ thời, sắc chính là không
Mê thời, không ấy chờ mong sắc này
Vượt qua bể khổ trần ai
Bến bờ giác ngộ chẳng hai trong lòng
Ai người có trí chớ mong
Sắc không như bóng nhạn trông đáy hồ
Vô niệm tức niệm Nam Mô
Không tâm đích thực đến bờ bên kia” !!!
Trên đây là những kiến giải của con, chắc chắn còn nhiều thiếu sót, mong Thầy và BQT sửa và bổ khuyết cho con.
Con xin thành kính lạy Thầy 3 lạy !!!
Con chúc Thầy luôn mạnh khỏe, trụ thế thật lâu !
Con, Lý Giác Thư (Mai Văn Sách)
4. Bài viết của Lý Viết Uyên
Kính Thầy!
Con xin kính lạy Thầy 3 lạy!
Sau đây là câu trả lời Trò chơi trí tuệ kỳ 4/2019 của con. Xin Thầy chỉ bảo thêm.
Câu 1: Hãy giải thích: Vì sao một người tu hành trong Phật đạo, chỉ có thể thành tựu các đạo quả của Phật đạo, khi người ấy quán Tứ Niệm Xứ (như pháp) ???
Trả lời:
Một người tu hành trong Phật đạo chỉ có thể thành tựu các đạo quả khi quán tứ niệm xứ vì:
Các quả vị của Phật đạo đều hướng đến diệt tận khổ đau, phiền não, giải thoát và trí tuệ. Và muốn thực hiện được điều đó, Phật đạo chỉ ra rằng nguyên nhân chính là do vô minh chiếm đóng nơi thân, tâm (bốn nơi chốn thân, thọ, tâm, pháp) hữu tình hay nói cách khác là, do nhận thức sai lầm nơi bốn niệm xứ này mà khởi các thứ hư vọng dẫn hữu tình vào vòng xoáy luân hồi sanh diệt không dứt.
Như vậy cũng chính từ bốn niệm xứ này người tu hành quán xét cho đến khi thấu suốt, trả lại bản nguyên trong sạch cho bốn niệm xứ thì cũng là lúc người tu hành thành tựu các quả vị trong Phật đạo. Giống như trong bóng tối (vô minh) lầm nhận sợi dây thành con rắn (tứ niệm xứ) mang tâm sợ hãi, khổ đau, phiền não nay bật ngọn đèn (giác ngộ) mới biết đó chỉ là sợi dây, từ đây an lạc, giải thoát… không cầu cũng tự đến.
Câu 2: Nếu một người tu tập trong Phật đạo, không quán Tứ Niệm Xứ…Mà quán một niệm xứ khác (như quán cảnh duyên bên ngoài là thế giới hay bình, bàn…v..v…). Người ấy có thể thành tựu một đạo quả nào đó trong Phật đạo hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Xin giải thích cụ thể !!!
Trả lời :
Nếu một người tu tập trong Phật đạo, không thực hiện quán tứ niệm xứ sẽ không thành tựu bất kỳ một quả vị nào trong Phật đạo.
Vì bởi ái dục, khổ, phiền não, kiết sử,lậu hoặc nương nơi bốn món thân, thọ, tâm, pháp mà trú, giả như không có thân và tâm này phiền não, kiết sử lấy nơi đâu nương gá mà sanh khởi. Cho nên giống như người chiến sĩ ra chiến trận tiêu diệt địch mà chẳng biết địch trốn nơi nao thì không thể chiến thắng.
Câu 3: Xin bạn cho biết, mục tiêu cuối cùng của phép quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu hành “thành tựu niệm xứ nào” trong tâm trí ??? Vì sao như vậy???
Trả lời:
Mục tiêu cuối cùng của phép quán tứ niệm xứ là giúp người tu hành thành tựu “vô niệm” (không niệm, không xứ). Vì bởi khi người tu hành giác ngộ, thì bốn món này trở về bản nguyên ban đầu trong suốt như hư không, không tích chứa phiền não, khổ đau, giống như vô minh đã được dọn ra khỏi căn nhà ngũ ngũ ấm vậy. Vì thế kinh dạy: “Ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”.
Con, Lý Viết Uyên
5. Bài viết của Lý Thiện Huệ
Thầy kính!!!
Con xin đảnh lễ Thầy ba lạy!!!
Con xin được trả lời các câu hỏi:
1) Hãy giải thích: Vì sao một người tu hành trong Phật đạo, chỉ có thể thành tựu các đạo quả của Phật đạo, khi người ấy quán Tứ Niệm Xứ (như pháp) ???
Trả lời:
Thưa Thầy!!!
Tứ niệm xứ bao gồm: “Thân, Thọ, Tâm, Pháp”, đây là bốn nơi chốn làm cho chúng sanh khổ. Vì vậy, người tu hành muốn chấm dứt khổ đau, phiền não, kiết sử và lậu hoặc, thì cũng từ bốn nơi chốn này tu tập. Ví như đau ở đâu, thì chữa ngay đó, có như vậy mới mong khỏi bệnh. Do đó, một người tu hành muốn mình “hết khổ”, phải y cứ vào Tứ Niệm Xứ, như pháp mà tu tập.
2) Nếu một người tu tập trong Phật đạo, không quán Tứ Niệm Xứ…Mà quán một niệm xứ khác (như quán cảnh duyên bên ngoài là thế giới hay bình, bàn…v..v…). Người ấy có thể thành tựu một đạo quả nào đó trong Phật đạo hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Xin giải thích cụ thể !!!
Trả lời:
Theo con: Nếu một người tu tập trong Phật đạo, không quán Tứ Niệm Xứ…Mà quán một niệm xứ khác (như quán cảnh duyên bên ngoài là thế giới hay bình, bàn…v..v…). Người ấy sẽ không thể thành tựu bất kỳ một đạo quả nào trong Phật đạo. Vì tu tập những pháp bên ngoài như thế giới hay bình, bàn…thì chẳng bao giờ chấm dứt được nguyên nhân sanh khổ.
Phật Đạo chỉ ra rằng, sở dĩ chúng sanh có khổ đau, có phiền não, có Kiết Sử và Lậu hoặc, là do mê lầm nơi Thân, mê lầm nơi Cảm Thọ, mê lầm Tâm và mê lầm Pháp (Quan niệm, hiểu biết…). Nếu không mê lầm nơi bốn điều này thì sự khổ sẽ không hiện. Cho nên, nếu có Giác Ngộ thì cũng Giác Ngộ từ bốn nơi chốn này.
Và tất cả các Đạo Quả trong Phật Đạo từ thấp đến cao, từ sơ ngộ đến giác ngộ viên mãn, sỡ dĩ có được thành tựu, đều là kết quả quá trình tu tập Tứ Niệm xứ Như pháp. Việc này cũng giống như, để mô tả quá trình học tập một người từ lớp 1 đến Tiến Sĩ, mỗi một cấp học có tên gọi tốt nghiệp tương ưng với “năng lực thành tựu” của Vị đó. Trong Phật Đạo, cũng tương tự như vậy.
VD như quả vị Tu Đà Hoàn trong Phật Đạo, được coi là một trong Tứ Thánh Quả, khi Vị tu hành đã chấm dứt ba Kiết Sử: Thân kiến, Giới Cấm Thủ và Nghi, trên nền tản tu tập “Tứ Niệm Xứ” như pháp… những quả vị còn lại, tương tự như thế, lần lượt thăng tiến trong quá trình tu tập quán pháp như pháp…
3) Xin bạn cho biết, mục tiêu cuối cùng của phép quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu hành “thành tựu niệm xứ nào” trong tâm trí ??? Vì sao như vậy ???
Trả lời:
Theo con, mục tiêu cuối cùng của phép quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu hành “thành tựu không niệm xứ” trong tâm trí.
Vì rằng nói bốn nhưng chỉ một thức nhận biết. Nhận thức sai lầm, nên bốn niệm xứ trở thành bốn món trói buộc. Dứt mê mới thấy bản chất bốn niệm xứ tự chơn, “nhất chơn nhất thiết chơn”.
Trên đây là những gì hiểu biết của con, kính Thầy chỉ dạy thêm !!!
Con chúc Thầy thật nhiều sức khỏe, trụ thế dài lâu nơi thế gian, cho HĐTM chúng con thêm nhiều lợi ích!!!
Con, Lý Thiện Huệ
6. Bài viết của Lý Ca Ca
Kính Thầy!!!
Kính HĐ Lý Gia!!!
Con xin phép trả lời câu hỏi:
Hỏi:
1) Hãy giải thích: Vì sao một người tu hành trong Phật đạo, chỉ có thể thành tựu các đạo quả của Phật đạo, khi người ấy quán Tứ Niệm Xứ (như pháp) ???
Trả Lời: Người tu hành cần phải quán Tứ Niệm Xứ (như pháp), vì nhờ quán như pháp để thấy rõ bản chất, thấy thiệt tướng của chúng, rồi thật chứng qua từng đạo quả của Phật đạo như: hết khổ, dứt tập, chứng diệt…
Hỏi:
2) Nếu một người tu tập trong Phật đạo, không quán Tứ Niệm Xứ…Mà quán một niệm xứ khác (như quán cảnh duyên bên ngoài là thế giới hay bình, bàn…v..v…). Người ấy có thể thành tựu một đạo quả nào đó trong Phật đạo hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Xin giải thích cụ thể !!!
Trả Lời: Người này không thể nào thành tựu đạo quả, vì sao như vậy???? Vì như phần trên nói rõ là muốn thành tựu các đạo quả của Phật đạo không ra ngoài Tứ Niệm Xứ, nơi bốn món đó khiến người phiền não khổ, cũng bốn nơi chốn đó đưa đến an lạc (niết bàn), bốn nơi đó dẫn đến ngu mê…, cũng bốn nơi đó phát sinh công đức và trí tuệ… thành ra thành tựu đạo quả của Phật đạo là phải ngay trên Tứ Niệm Xứ, chứ không thể nào thành tựu nơi một niệm xứ khác (bình, bàn…).
Hỏi:
3) Xin bạn cho biết, mục tiêu cuối cùng của phép quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu hành “thành tựu niệm xứ nào” trong tâm trí ??? Vì sao như vậy ???
Trả Lời: Mục tiêu tiêu cuối cùng của phép quán Tứ Niệm Xứ, người tu hành thành tựu là vô vi niệm xứ, tịch tịnh niệm xứ…
Đây là sự hiểu biết của Con, xin Thầy dạy bảo thêm, đa tạ Thầy…
Con, Lý Ca Ca