Ba Vị Huynh Đệ Luận Về..Phước Đức

B: Thưa SH! Đọc kinh Kim Cang, đệ có một vài thắc mắc, xin SH giải thích dùm để đệ và Lã Muội thông suốt!
A: Có thắc mắc gì, các bạn cứ việc hỏi!
B: Thưa SH! Đệ có ba thắc mắc:
─ Thứ nhất, vì sao kinh Kim Cang dạy rằng, người trì tụng kinh này “phước đức” nhiều vô số kể, mà không nói người “trì tụng” kinh này “công đức” nhiều vô số?
─ Thứ hai, xin SH giải thích dùm, phước đức của người thọ trì kinh Kim Cang, khác phước đức của người không thọ trì kinh Kim Cang như thế nào?
─ Thứ ba, phước đức khác công đức ở chỗ nào, và làm thế nào để có công đức?
A: Để giải đáp những câu hỏi đệ vừa nêu, chúng ta cần nắm vững việc thọ trì kinh Kim Cang là thọ trì như thế nào, khi giải quyết được điều này, ba câu hỏi của đệ mới có thể sáng tỏ!
Thông thường, khi nói đến thọ trì hay trì tụng kinh, người tu hành thường nghĩ ngay đến việc đem cuốn kinh để trước mặt và đọc tụng, như ta vẫn thường thấy ở các thời khoá!
Hiểu và thực hành như thế, lợi ích không lớn! Trì tụng kinh Kim Cang hay trì tụng kinh của Phật nói chung, không giống như đọc báo, xem tin tức hay học trò trả bài! Mà, khi đọc tụng từng chữ, từng câu kinh, người tụng đọc phải nắm vững nội dung, phải tư duy để hiểu thật nghĩa các chữ hoặc câu đó nói gì! Đọc tụng như vậy, mới gọi là đọc tụng kinh Phật!
Khi đã hiểu lời kinh nói gì, người tu hành bây giờ đem những nghĩa lí mình đã hiểu áp dụng vào đời sống! Áp dụng đến bao giờ vị ấy và nghĩa kinh không còn là hai pháp, tức vị ấy là kinh, kinh là vị ấy, thực hiện rốt ráo như vậy gọi là “trì”! Trì tụng như thế gọi là trì tụng “tâm kinh”, tức kinh tương ưng với tâm, tâm tương ưng với kinh, kinh và tâm trở thành nhất thể!
Khi tâm và kinh nhất thể, lợi ích của việc trì tụng sẽ phát sinh diệu dụng! Có vô số diệu dụng của việc trì tụng kinh, nhưng có ba sự diệu dụng chính mà người trì tụng thấy rõ là:
Một, từ phước đức hữu lậu biến thành phước đức vô lậu!
Hai, phát sinh công đức!
Ba, tăng trưởng trí tuệ!
● Như thế nào gọi là phước đức hữu lậu biến thành phước đức vô lậu?
Phước đức là những thứ mà một người bình thường trong ba cõi, người không giác ngộ cũng có thể thấy được, nó thuộc về “y báo” liên hệ đến vật chất thế gian như, thân tướng, gia đình, nhà cửa, địa vị, tiền bạc, học vấn, v.v... của người đó!
Phước đức có hai thứ, một là phước đức hay phước báo hữu lậu, hai là phước đức hay phước báo vô lậu!
− Phước báo hữu lậu, là thứ phước báo trong đó ngầm chứa mầm mống của khổ, phiền não, kiết sử và lậu hoặc! Phước báo này của những người không giác ngộ, thuộc về phước đức thế gian!
Vì thế, người trong thế gian, hoặc người trì tụng kinh không theo cách nói trên, tức tụng kinh mà không đưa đến giác ngộ thật nghĩa của kinh, khi người đó làm phước, bố thí hoặc thực hành thiện pháp sẽ chỉ được phước đức hữu lậu!
− Phước báo vô lậu, là thứ phước báo giống như phước báo thế gian, nhưng nhân của nó là “chánh báo vô lậu”! Do xuất phát từ chánh báo vô lậu, nên quả của nó không còn mầm mống của khổ, phiền não, kiết sử, lậu hoặc! Phước báo vô lậu, là thứ phước báo của những vị đã giác ngộ, là loại phước báo xuất thế gian!
Vì thế, những người trì tụng kinh Kim Cang (hoặc các loại
kinh khác) mà thấu suốt ý nghĩa rồi ứng dụng như pháp để đưa đến giác ngộ, người này khi làm phước, bố thí hoặc thực hành thiện pháp sẽ được phước báo vô lậu!
Phước báo vô lậu là loại phước báo xuất thế, nên nó không thể tính đếm được, do không thể tính đếm được, kinh gọi nhiều vô số kể! Thế nào gọi là không thể tính đếm được?
Không thể tính đếm được hay “bất khả toán số thí dụ”, là nói đến tính chất chứ không phải nói đến đo lường toán học! Ví dụ, hai người giàu có bằng nhau, giữa người giác ngộ và người không giác ngộ mức độ hạnh phúc từ sự giàu sang là không thể so sánh! Người không giác ngộ, trong sự giàu có luôn hiện diện lậu hoặc, tức đi kèm với giàu sang là khổ, phiền não và các kiết sử! Người giác ngộ, cũng giàu sang nhưng không hề có các thứ ấy (lậu hoặc) trong tâm thức và đời sống, vì thế hạnh phúc của họ không thể đo lường được gọi là vô số kể!
Về phước đức, hai bạn còn có điều gì chưa thông suốt, xin nêu thắc mắc của mình?
LM: Thưa SH! SH cắt nghĩa cho muội hai chữ “lậu hoặc” là gì?
A: Lậu là rỉ chảy! Hoặc là che mờ! Lậu hoặc là khổ, phiền não, kiết sử trong tâm rỉ chảy ra, làm che mờ tâm trí! Giống như một tấm kiếng, bị nước đục chảy vào, tấm kiếng đó không còn trong sáng!
Về công đức, nếu phước đức là những gì thuộc về vật chất hoặc phi vật chất mà mọi người đều có thể thấy hoặc cảm nhận được thì, công đức là thứ giá trị tinh thần thuộc về đạo xuất thế! Giá trị tinh thần của công đức thuộc về xuất thế, nên chỉ những ai giác ngộ đạo xuất thế mới có và cảm nhận được thứ giá trị tinh thần này!
Về tính chất của công đức, người trì tụng kinh Kim Cang mà “có giác có ngộ”, sẽ cảm nhận rõ rệt các tính chất của nó như: An lạc, thanh tịnh, bất động, vô lậu, vô vi, v.v... Tức người này cảm nhận một phần hoặc toàn bộ các đặc tính của Niết Bàn, các đặc tính nêu trên là những giá trị mà công đức xuất thế mang lại! Nếu công đức đầy đủ, vị này sẽ mọc mầm trí tuệ dẫn đến thành tựu “vô lậu trí tuệ” trong Phật đạo ở vị lai!
● Vì sao kinh chỉ nói, người trì tụng kinh Kim Cang phước đức nhiều vô số mà không nói đến công đức?
Người trì tụng kinh Kim Cang như pháp, thành tựu công đức là chuyện tự nhiên, giống như người có nhiều kim cương đương nhiên là kẻ giàu trên đời, vì thế việc kinh không nói nhiều đến công đức cũng chẳng phải là chuyện khó hiểu!
Thứ nữa, tuy kinh không đề cập đến công đức, nhưng nghĩa kinh chú trọng đến thành tựu “không bốn tướng, không ba thời, lìa danh tướng, biết các pháp như huyễn, v.v... ” chính là đã gián tiếp đề cập đến tướng trạng của công đức vậy!
Về công đức, các bạn có gì thắc mắc hay không?
B: Thưa SH! Người tu hành, giác ngộ ở tầng bậc nào thì có được công đức?
A: Người tu hành, từ quả vị đầu tiên là Nhập lưu tức Tu Đà Hoàn, đã bắt đầu phát sinh công đức!
Vì rằng, Tu Đà Hoàn của Nhị thừa, hay sơ ngộ Thiện Kiến của Bồ Tát, là những quả vị đã có thể thấy được cái thanh tịnh ban sơ (sơ giác)!
Do thấy được thanh tịnh ban sơ, nên vị này biết con đường làm thế nào để giã từ dòng đời ô nhiễm của thế gian không thanh tịnh mà nhập vào dòng thánh, vì thế từ đó phát sinh công đức! Giống như người lạc giữa rừng đên, may mắn thấy chút ánh sáng ở bìa rừng! Người đó cứ nhắm đốm sáng mà đi! Chẳng bao lâu ra khỏi khu rừng!
Như thế nào gọi là từ giã dòng nước thế gian? Từ giã dòng nước thế gian là không chạy theo dòng đời, không chạy theo dòng đời là không đem tâm chạy theo thấy nghe hay biết như hồi chưa giác ngộ!
Như thế nào gọi là nhập vào dòng thánh? Nhập vào dòng thánh là quay lại bổn tâm, như thế nào là quay lại bổn tâm? Quay lại bổn tâm là không nhìn ngó bên ngoài, không trụ nơi thấy nghe hay biết để sinh các thứ tâm hư vọng!
Nói khác hơn, trong không khởi tam tâm (quá khứ, hiện tại, vị lai), ngoài xa rời bốn tướng (nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả), chính là hành động cụ thể giúp người tu hành đi từ sơ ngộ đến thành tựu Kim Cang Tâm! Kim Cang Tâm là thứ tâm đầy đủ công đức!
B: Xin SH giảng tiếp điều vi diệu thứ ba là, khi trì tụng kinh Kim Cang như pháp sẽ phát sinh trí tuệ?
A: Trí tuệ trong Phật đạo, là loại hiểu biết chỉ có từ nhân giác ngộ! Hay nói khác hơn, đây là loại hiểu biết do giác ngộ mà thành, hiểu biết này thuộc về đạo xuất thế!
Cái được gọi là trí tuệ của Phật đạo không giống đem tri thức thế gian hiểu về Phật đạo, mà nó là những hiểu biết chắc thật hình thành từ quá trình thực chứng! Mình xin đưa ra ví dụ, từ ví dụ mọi người có thể hiểu được thật nghĩa của nó:
Giống người nông dân, sau khi học kĩ thuật canh tác từ những nhà chuyên môn, biết kĩ thuật canh tác gọi là tri thức! Tri thức hay tri kiến trong Phật đạo là những hiểu biết chân chánh về đạo pháp, hiểu biết này chỉ thuần tuý là tri thức (tri kiến)!
Sau đó người nông dân đem những điều mình đã học, ứng dụng vào việc canh tác! Trong quá trình ứng dụng thực tế phát sinh những vấn đề mà lí thuyết không thể bao quát hết được!
Nhờ các phát sinh ấy, người nông dân nổ lực khắc phục! Cứ như vậy, ứng dụng lí thuyết, khắc phục các phát sinh, đến khi nào việc canh tác của người nông dân hoàn toàn như ý!
Với bao nhiêu thửa ruộng, với bao nhiêu công sức bỏ ra! Bây giờ người nông dân hoàn toàn nắm vững kĩ thuật canh tác, kết quả gieo trồng không còn bất kì sai số nào! Hiểu biết của người nông dân lúc này có thể đem ra trao đổi với những người nông dân khác một cách chắc thiệt! Lấy hiểu biết chắc thiệt của tự thân đem chia sẻ cho người, Phật đạo gọi là “tuệ”! Tuệ hay trí tuệ trong Phật đạo là thứ hiểu biết cụ thể thông qua quá trình thực chứng!
Về hai chữ trí tuệ trong Phật đạo, ta có thể tóm tắt như sau: Trí: Là những thấy biết chắc thật từ sự giác ngộ chắc thật! Tuệ: Là sự phát sáng, là năng lực giáo hoá, là sức ảnh hưởng như pháp đến các hữu tình khác!
Trí tuệ trong Phật đạo là như thế! Các bạn có thắc mắc gì không?
B: Thưa SH! Ba điều vi diệu khi trì tụng kinh Kim Cang đã được SH giảng giải thấu đáo! Đối với những thắc mắc khi đọc kinh, đệ thưa hỏi vừa rồi, nay đã sáng tỏ! Xin cảm ơn SH!
LM! SH ơi! Đúng là hiểu sai sẽ thực hành sai, thực hành sai sẽ cho ra kết quả sai! Một người không giác ngộ, không thực sự có trí tuệ, khi giảng nói Phật pháp nhất định đưa người tu hành đi từ cái sai này đến cái sai khác, lâu dần trở thành “lỗi hệ thống” rất khó sửa chữa!
Cũng mấy chữ tụng kinh, phước đức, công đức, trí tuệ! Nhưng, khi nghe SH giảng xong, muội thấy mọi thứ minh bạch và ứng dụng dễ dàng! Vạn lần đội ơn SH!