Bảy Câu Hỏi Về... Sách " Vô Đối Môn"

Vừa rồi, có một vị khách quý đã đặt một số câu hỏi chung quanh cuốn Vô Đối Môn. Theo mình, đây là những câu hỏi thú vị và thực tế!!! Xin chuyển đến các bạn, nội dung cuộc hỏi đáp lí thú này:
● 1. Khách: Tác phẩm Vô Đối Môn được trình bày theo hình thức hỏi đáp. Xin hỏi cư sĩ:
− Ông có thể cho biết hoàn cảnh ra đời cũng như nhân duyên làm nên các câu hỏi trong Vô Đối Môn?
− Việc sắp xếp hàng trăm câu hỏi xoay quanh chủ đề Phật đạo trong Vô Đối Môn liệu đã đủ kiến thức cho Phật tử muốn tìm hiểu sâu về Phật đạo?
● 1. Lý Tứ: Thưa quý khách,
⁕− Vào năm 2015, có hai vị khách trẻ là vợ chồng đều là Bác Sĩ, đi cùng một người học trò của mình đến thăm mình. Trong lúc nói chuyện, hai vị khách có hỏi mình một số câu hỏi về Phật pháp, mình trả lời cụ thể từng câu, và hai vị khách rất hài lòng với những gì mình đã trình bày (đó là những câu hỏi nằm ở phần đầu cuốn Vô Đối Môn)!
Sau khi hai vị khách ra về, mình suy nghĩ, tại sao ta không ghi lại những câu hỏi và trả lời về Phật pháp mà mình đã trao đổi với mọi người trong thời gian qua thành một cuốn sách. Nhân duyên Vô Đối Môn ra đời trong hoàn cảnh như thế. Sau khi Vô Đối Môn in thành sách, hai vợ chồng vị Bác Sĩ trẻ ấy là những người đầu tiên đã được mình gởi tặng họ một cuốn, coi như lời tri ân trước một nhân duyên lành để cuốn Vô Đối Môn ra đời!
⁕− Việc sắp xếp hàng trăm câu hỏi xoay quanh chủ đề Phật đạo trong Vô Đối Môn liệu đã đủ kiến thức cho Phật tử muốn tìm hiểu sâu về Phật đạo?
Theo mình, như mọi người đều biết, Phật đạo như biển lớn, các câu hỏi và trả lời trong Vô Đối Môn chỉ là những giọt nước nhỏ nhoi trong biển lớn ấy, nên bảo rằng các câu hỏi đó đã đủ kiến thức giúp một Phật tử hiểu sâu về Phật đạo là không thoả đáng.
Nhưng có thể nói, các câu hỏi và trả lời trong Vô Đối Môn, được sắp xếp từ dễ đến khó, từ cạn đến sâu... được coi là những gì cơ bản nhất, giúp người tìm hiểu Phật pháp có thể hiểu rõ và định hướng cho bản thân các bước đi cần thiết trong từng giai đoạn tu tập!
● 2. Khách: Một cuốn sách ra đời có thể gây nhiều tranh cãi. Với Vô Đối Môn là cái tên sách: Cửa Vô đối và thông điệp của cuốn sách: Cửa lớn mở tâm trí. Với 30 năm nghiên cứu Phật đạo, điều gì cư sĩ muốn gửi gắm đến độc giả trong lần xuất bản tác phẩm Phật đạo đầu tiên này?
● 2. Lý Tứ: Không riêng gì cuốn Vô Đối Môn, mà theo mình, bất kì một sản phẩm nào ra đời, việc tranh cãi về sản phẩm ấy là chuyện tự nhiên.
⁕− Với mình, Vô Đối Môn cũng chỉ là một sản phẩm, và sản phẩm này tốt hay xấu, có ích hay không, v.v... xã hội và người đọc là những vị “Thầy” thông tuệ, nghiêm khắc và là “Quan toà” công tâm nhất, vì thế mọi đánh giá, phán xét về Vô Đối Môn sẽ được người Thầy và vị Quan toà ấy (dư luận xã hội và người đọc) đưa ra kết luận sau cùng!
⁕− Khi viết Vô Đối Môn, mình chỉ có một tâm niệm, đó là: Những ai có nhân duyên đọc Vô Đối Môn, hi vọng sẽ tìm thấy trong đó một chút lợi ích thiết thực từ cuốn sách, trong quá trình tìm hiểu Phật pháp!
● 3. Khách: Với mục tiêu cho người học đạo là “Giác ngộ ─ Giải thoát ─ Trí tuệ” ... ông có sợ mục tiêu này của mình có cao siêu quá không dù ông đã bỏ ra 30 năm nghiên cứu.
Ông có thể giải thích cho độc giả hiểu thấu chân lý: Giác ngộ - Giải thoát - Trí tuệ?
● 3. Lý Tứ: Giác ngộ, Giải thoát và Trí tuệ là ba mục tiêu của Phật đạo, chứ không phải của mình tự đề ra, cho nên Phật đạo còn có tên là Đạo Giác Ngộ, Đạo Giải Thoát và Đạo Trí Tuệ!
⁕− Việc mục tiêu này có cao siêu quá hay không?... Xin thưa.. không riêng gì Phật đạo, mà bất kì nền giáo dục nào cũng có những mục tiêu của nó, và bổn phận của giáo dục là bằng mọi cách giúp người học hoàn thành các mục tiêu đã đề ra!... Và.. theo mình, việc hoàn thành mục tiêu của giáo dục đề ra không liên hệ đến chuyện cao siêu hay tầm thường, mà nó là kết quả tất yếu của quá trình dạy và học!
⁕− Về ba phương châm “Giác ngộ - Giải thoát - Trí tuệ”, mình xin tóm tắt ý nghĩa của nó như sau:
• Giác ngộ, là thấy biết và thấu suốt điều mình đang học, đang hướng đến.
• Giải thoát, là không còn bị ràng buộc bởi những quan niệm (các pháp) hư vọng từ thân tâm đến thế giới.
• Trí tuệ, là biết cách giúp mình và người thành tựu rốt ráo hai phương châm Giác ngộ và Giải thoát.
● 4. Khách: Tâm và Pháp là 2 vấn đề ông nhấn mạnh trong cuốn sách. Nếu có thể nói ngắn gọn hơn cho một người học đạo Phật thấu hiểu để vận dụng vào thực tế cuộc sống, ông sẽ tóm tắt 2 ý trên như thế nào?
● 4. Lý Tứ: Phật đạo đề ra bốn nơi chốn mà người tu hành phải giải quyết tận gốc nếu muốn được an vui, bốn nơi chốn đó là “Tứ niệm xứ”, gồm: Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ và Pháp niệm xứ.
Trong Vô Đối Môn, mình chỉ đề cập nhiều đến Tâm niệm xứ và Pháp niệm xứ mà ít đề cập đến hai niệm xứ còn lại là vì.. trong các mẩu đối thoại mà mình đã trao đổi, toàn bộ là cư sĩ, và phần lớn họ chỉ đề cập đến những khúc mắc trong phạm vi của tâm và pháp, cho nên người đọc chỉ thấy Vô Đối Môn nói nhiều đến tâm và pháp là lý do như vậy!
Về “Tâm” và “Pháp” mình xin sơ lược như sau:
⁕− “Tâm” trong Phật đạo, nhằm chỉ một hiệu ứng tình cảm khi các giác quan xúc đối với trần cảnh rồi chấp chặt, mê mờ và sinh các quan niệm hư dối từ nơi trần cảnh ấy, để rồi cuối cùng.. một hiệu ứng tình cảm khởi lên.
Ví dụ: Một bức tranh, tự thân nó không có ý nghĩa đẹp xấu, nhưng khi ta tiếp cận bức tranh, tuỳ vào góc nhìn, tuỳ vào quan điểm, tình cảm, v.v... ta sẽ thấy bức tranh đó đẹp hay xấu (theo quan điểm riêng của ta). Nếu ta mê mờ, chấp chặt quan điểm này, trong lòng sẽ sinh các hiệu ứng tình cảm như thương hay ghét (bức tranh), thương thì khởi tâm tham (muốn có được), chán ghét thì sẽ sân hận (muốn xa lánh), những hiệu ứng như vậy, Phật đạo gọi là Tâm hay phàm tâm (khi phàm tâm hay hư vọng tâm rốt ráo tịch diệt, chơn tâm hay bổn tâm thanh tịnh sẽ hiện)!
⁕− “Pháp”, là đối tượng của ý căn, nó là những nhận thức, quan niệm, khái niệm, quan điểm, v.v... Phật đạo chỉ ra rằng, các pháp hay nhận thức, quan niệm, khái niệm như thế không có chân lý, chỉ đúng với nơi này, người này, văn hoá này... không đúng với nơi khác, người khác, văn hoá khác...
Vì thế một pháp tự nó không có những tính chất nhất định, không bền chắc vì không đại diện cho chân lí, Phật đạo gọi là không tánh. Nếu ta mê say các quan niệm ấy, sẽ bị các quan niệm ấy trói buộc, làm cho u tối và phát sinh phiền não cũng như các thứ kiết sử là tham, sân, v.v... (khi ý thức không mê say các pháp, thức mê sẽ chuyển thành trí)!
⁕− Về ứng dụng, nếu trong cuộc sống, ta tỉnh táo trước mọi cảnh duyên, không mê mờ để cho tâm và pháp hư vọng chế ngự hay làm chủ bản thân, nhất định trước mọi hoàn cảnh ta không động lay hay bị cám dỗ bởi bất kì việc gì (Phật giáo tạm gọi là Định Vô Lậu)... Từ đó, đời sống sẽ an vui!
Một khi không bị cảnh duyên làm vướng bận trong lòng, không phân tâm bởi những tác động bên ngoài, người ta mới có thể toàn tâm toàn ý cho công việc, lao động hay học tập, nhờ đó khi làm việc sẽ cho ra hiệu quả cao!
● 5. Khách: “Văn - Tư - Tu” là điều kiện cần và đủ để nuôi dưỡng con đường của một người tu hành. Không một bậc Thầy cao siêu nào có thể dạy được học trò nếu học trò không chịu trải qua con đường rèn luyện trên. Xin cư sĩ cho hỏi, Văn - Tư - Tu trong giáo lý ông dạy học trò có khác Phật tử tu học từ các tăng ni trên chùa không?
● 5. Lý Tứ: Bản thân là một Phật tử, thấm nhuần lời dạy của Phật: “Kính Tăng như kính Phật”, do đó việc làm, việc dạy, và học của Tăng, Ni, Phật tử như thế nào, mình không can dự và cũng không có ý kiến (khi chưa nhận được yêu cầu từ các vị tôn túc)!
Vả chăng, việc so bì, phê phán chuyện đúng, sai, hay, dở, v.v... của người, không phải là tác phong của Lý Tứ!
Vì thế, mình xin mạn phép trả lời những gì có liên hệ đến mình và bạn bè cùng tu học với nhau!... Theo mình:
⁕− Văn: Tiếp nhận kiến thức.
⁕− Tư: Suy nghĩ thấu đáo kiến thức đã tiếp nhận.
⁕− Tu: Ứng dụng triệt để những nghĩa lí đã thấu đáo vào thực tiễn cuộc sống.
Ví dụ: Phật dạy: “Tham là giềng mối của khổ, phiền não”. Nghe được lời dạy này gọi là Văn. Nghe xong, suy nghĩ thấu đáo ý nghĩa: Vì sao tham là giềng mối của khổ phiền não, vì sao tham lại hiện hữu trong ta, hiện hữu bằng cách gì, làm sao để nó tịch diệt vĩnh viễn, v.v... Suy nghĩ như thế gọi là Tư (tức tư duy quan sát, thuật ngữ hay dùng là Thiền tư). Suy nghĩ thấu đáo rồi, ứng dụng triệt để hiểu biết này vào đời sống, đến khi nào tham không còn hiện khởi trong ta gọi là Tu!
Chữ “tu” theo mình, là hình thức dùng chính giác ngộ của tự thân để biến “hữu lậu tâm, hữu lậu trí” thành “vô lậu tâm, vô lậu trí” ngay trong cuộc sống này!
● 6. Khách: Học trò ông rất nhiều tầng lớp, người già nhất năm nay đã 102 tuổi, người trẻ nhất vẫn đang là sinh viên. Người là nông dân, kỹ sư, cán bộ, kinh doanh, v.v... nhưng đều theo học ông như một con đường giúp họ thấu hiểu rõ hơn chân lý nhà Phật. Ông có điều gì căn dặn học trò khi học pháp của mình không?
● 6. Lý Tứ: Mình có bốn phương châm học tập và hành xử thường căn dặn bạn bè của mình, đó là:
1) Phải xây dựng thái độ học tập.
2) Phải siêng năng, nỗ lực học tập.
3) Phải nắm vững phương pháp học tập, và thấu đáo những điều mình đã học.
4) Phải biết mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất!
● 7. Khách: Ông có lời khuyên nào cho người học đạo Phật? Lời nói đầu ông viết về hình ảnh tráng sĩ là thái tử Tất Đạt Đa trên con đường đi tìm con đường giác ngộ. Ông muốn gửi gắm điều gì trong khúc tráng ca đầy cảm xúc ấy?
● 7. Lý Tứ: Nếu có lời khuyên cho người học đạo, chắc mình cũng chỉ gởi gắm bốn điều đã nêu ở câu hỏi số 6!
Bài Tráng Ca mình viết với một cảm xúc đặc biệt khi gặp phải một sự việc khó giải quyết, mình có ghi lại hoàn cảnh ra đời của bài ca ấy trong Chuyên Mục Chuyện Bên Lề số 09, được đăng trong Fanpage Lý Tứ.
Khi đưa Bài Tráng Ca Bất Tử vào Vô Đối Môn, mình muốn gởi gắm đến bản thân và bạn đọc, khi gặp một chuyện khó xử trên đời, hình ảnh đi tìm con đường giác ngộ của thái tử Tất Đạt Đa, sẽ cho ta một giải pháp tốt nhất, đó là không giải quyết sự việc theo hướng cực đoan...
Vì rằng, giải quyết cực đoan sẽ là con đường đưa mọi thứ đến bế tắc và rời xa chân lí!!!
● Khách: Xin cảm ơn cư sĩ!
● Lý Tứ: Xin cảm ơn quý khách, chúc quý khách an vui, thành công trong cuộc sống!!!
(01-08-2019)