Pháp Xả Của Bồ Tát Thừa
Bồ Tát quyền thừa và nhất thừa có cùng một đặc điểm xả, nhưng do căn cơ sai biệt nên Bồ Tát quyền thừa tiệm tiến chờ bổn tâm dần dần thanh tịnh, xả pháp sẽ viên mãn theo, giống như lắng nước đục thành nước trong. Bồ Tát nhất thừa trong đục đều không thể nhiễm, giống như người có sức đề kháng tối ưu không một loại vi trùng nào có thể xâm hại được.

Phật Giáo Và Thiền - Tác Giả Lý Tứ
Bồ Tát thừa ở đây chỉ chung cho Bồ Tát quyền thừa và nhất thừa. Hai thừa Bồ Tát này có cùng một đặc điểm xả, nhưng do căn cơ sai biệt nên Bồ Tát quyền thừa tiệm tiến chờ bổn tâm dần dần thanh tịnh, xả pháp sẽ viên mãn theo, giống như lắng nước đục thành nước trong. Bồ Tát nhất thừa trong đục đều không thể nhiễm, giống như người có sức đề kháng tối ưu không một loại vi trùng nào có thể xâm hại được.
Hai cách thức xả có cùng sở giác là ‘bổn lai tâm này thanh tịnh’ nhưng ngộ thì chậm mau không đồng. Quyền thừa giác được thanh tịnh nhưng chưa thể một lúc làm sạch phàm tâm nên phải y cứ sở giác tu hành trước rồi mới ngộ sau.
Nhất thừa giác ngộ đồng thời gọi là liễu ngộ, tức thấu đạt triệt để. Chính điều này người đời sau cho là có thiền tông và giáo tông, thực chất hai tông này cũng chỉ từ một lời kinh mà đốn tiệm có sai khác, chỉ vì công đức và trí tuệ không đồng.
Bồ Tát quyền thừa sau khi giác ngộ bổn tâm thanh tịnh, hướng trí tuệ đến tam giải thoát môn là Không, Vô tướng, Vô tác làm pháp y chỉ, coi đây là ba cánh cửa vào thành Niết Bàn. Thành này có ba cửa nhưng chỉ cần đi vào một cửa là thành tựu mục tiêu đặt ra.
− Không môn: (cửa không) Chính là pháp Xa Ma Tha hay còn gọi pháp chỉ, pháp này căn cứ vào thanh tịnh tâm, lắng trong vọng niệm, trừ sạch vọng tình, vọng tâm dứt gọi là hết mê. Pháp tu này đòi hỏi phải là người có tâm kiên định và chỗ giác ngộ thật sâu, nếu giác ngộ không sâu sẽ không thấy được không môn.
− Vô tướng môn: Một hình thức biến thể của không môn, độ giác ngộ không sâu bằng không môn vì còn dùng ý thức nhiếp lấy nghĩa không nên nói rằng không mà lại có tướng không.
Loại giác ngộ này phải dùng pháp Tỳ Bà Xá Na hay còn gọi huệ Bát Nhã để làm sạch ý thức, có nghĩa cảnh giác cao độ với các kiến giải của ý thức, quở trách mọi lỗi lầm phát sanh từ kiến giải hoặc những ý niệm có khuynh hướng thế tục.
Căn bản là tránh lỗi cơ hiềm thế gian, nếu chấp thủ phát sanh tà kiến gọi là hạng chấp không rất nguy hiểm. Hạng này miệng thường hay nói không nhưng trong tâm tích chứa đủ sân hận phiền não, tâm miệng không xứng nhau.
Trong kinh Lăng Già có khuyến cáo điều sai trái này: “Thà chấp có như núi Tu Di còn hơn chấp không như hạt cải,” ‘chấp có’ còn có thể xả bỏ, ‘chấp không’ mất hết thiện căn.
− Vô tác môn: Là loại giác ngộ thấy được lỗi lầm của ý thức, biết rõ ý thức chính là ông chủ sai sử và làm mê hoặc tâm, mọi tác hành đều chịu sai sử của thức nghiệp, giác ngộ này cần đến sự giản trạch nhiều về tâm, thức, và căn trần, hiểu rõ ý nghĩa tâm sanh pháp, biết căn nguyên mọi thứ mê lầm do thức nhiễu loạn nên gấp rút tách thức ra khỏi căn, trả lại trong sạch bản nhiên của căn.
Khi thức không nương gá vào căn, năm căn thân tương ưng Thành Sở Tác Trí; ý căn không còn là ý thức thì ý bây giờ tương ưng Diệu Quan Sát Trí; ý không bị nhiễu loạn bởi thức nên ngã không sanh tương ưng Bình Đẳng Tánh Trí; ngã không sanh tâm rỗng rang tương ưng Đại Viên Cảnh Trí; nói tương ưng bốn trí vì địa vị này chưa viên mãn nên chưa được chính thức gọi là trí. Tuy nhiên đây lại là chủng tử phát sanh bốn trí nên loại giác ngộ này sau khi thành tựu thông suốt pháp hòa hợp duyên và lỗi lầm căn trần thức, do đó sẽ dễ thấu suốt nguyên ủy phát sanh pháp giới chúng sanh, điều kiện thuận lợi cho Bồ Tát đạo sau này.
Phần lớn căn cơ này phải dùng Tam Ma Đề triệt tiêu thức phân biệt. Căn bản Tam Ma Đề là biết ‘các pháp như huyễn’, mượn ‘phương tiện như huyễn’ để trừ ‘huyễn tâm’, khi huyễn tâm không còn, pháp này cũng tự mất nên kinh gọi tu ‘như huyễn Tam Ma Đề’. Căn cơ tu pháp này chỗ giác ngộ không sâu nên rất cần sự hộ trì của giới bổn, gọi là bốn quyết định đoạn và phòng hộ các căn trong tán tâm, gọi là ba tiệm thứ tu hành.
Pháp tu này không đưa đến rốt ráo thanh tịnh nên phải đợi giác ngộ lần nữa, kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi là: “Đợi tiếp dòng nước pháp.” Giác ngộ lần nữa chỉ là sự xác chứng rằng đây mới thiệt bổn tâm thanh tịnh, vào cảnh giới này là một hình thức giác ngộ rốt ráo vô tướng môn.
Thật ra trong Phật pháp, cuối cùng chỉ có hai pháp là chỉ và quán, từ hai pháp này mà có ra pháp thiền. Có thể hiểu nôm na ‘quán’ là một hình thức của ‘thiền’, ‘chỉ’ là một hình thức của ‘định’.
Chữ ‘quán’ trong Phật pháp không giống như suy nghĩ của thế gian mặc dầu xét cho cùng quán cũng là thứ suy nghĩ, khác nhau ở chỗ suy nghĩ đưa đến thỏa mãn hiểu biết, còn ‘pháp quán’ khi thấu suốt thì ‘tâm dừng lặng’.
Cho nên có thể nói đích đến của quán là chỉ hay khác hơn tận cùng của thiền là định. Dù quán hay chỉ, thiền hay định, rốt ráo đều phải đưa đến cứu cánh xả. ‘Xả’ chính là đích đến của ‘thiền định chỉ quán’, vì vậy dù tu pháp nào, giác ngộ ra sao không có cứu cánh xả thì nhất định giác ngộ tu hành này có vấn đề.
Vì rằng tất cả pháp của Phật pháp luôn luôn có khuynh hướng giải trừ cấu nhiễm. Cho dù đó là thánh pháp mà đem tâm cấu vào thì thánh pháp này cũng thành thế pháp, nơi thế pháp kia mà xả được thì thế pháp cũng thành thánh pháp. Do đó ‘pháp xả’ là cứu cánh nhất định của đạo xuất thế.
Xuất thế không có nghĩa là từ bỏ cõi này đi đến một nơi khác xa xôi. Chính nơi được coi ác thế ngũ trược mà tâm không cấu nhiễm thì tại nơi đây là xuất thế. Vì thế xả giác chi hay pháp xả là tối thượng đạo, chỉ có xả mới có thể thành tựu thánh trí.
Tóm lại, thất giác chi là bảy pháp do giác ngộ hình thành, nó là thuộc tính của nhau. Có thể ví trạch pháp hay niệm giác chi như mặt trời (giềng mối phát sinh chân lý), hỷ - khinh an - tinh tấn là ánh sáng (sự chiếu sáng bất tận), định là sức chiếu tự tại (chiếu không phụ thuộc hoặc chạy theo đối tượng), xả là chiếu sáng không biên bờ (không hạn chế đối tượng hay nơi chốn để chiếu).
Vì thế thất giác chi thuộc thánh pháp, nó là kết quả của diệt đế, thất giác chi có công năng làm viên thành đạo giác ngộ.
Mỗi thừa có một nơi chốn để giác ngộ và có một thất giác chi tương ưng với năng lực giác ngộ.
Mỗi hành giả khi giác ngộ có một cách hiểu thất giác chi cho riêng mình và chỉ ứng dụng cho riêng mình. Phật pháp có vô lượng môn giải thoát thì cũng có bấy nhiêu thứ thất giác chi tương ứng.
Tuy nhiên nói là nhiều nhưng không ngoài ba thừa, nếu có thể có một khái niệm tổng quát ba thừa thì dù nhiều cũng không ra khỏi quy luật ba thừa.
Vì thế để có một cái nhìn tổng quát về vấn đề này cần hiểu tường tận cách thức giác ngộ và tu tập của ba thừa. Hiểu rồi thì cơ may ứng dụng thất giác chi sẽ đạt hiệu quả cao.
Thành tựu thất giác chi là cơ sở để phát sinh đạo đế. Nếu thất giác chi chưa viên thành thì đạo đế chưa thể xuất hiện, vì đạo đế hay bát chánh đạo thuộc phần tu đạo, tức môi trường sống của diệt đế, giống như nước là môi trường sống của cá. Mỗi loài cá sẽ tự chọn cho mình một môi trường thích hợp để tồn tại và bát chánh đạo ra đời trong hoàn cảnh này.
(còn nữa)