Phật Giáo Và Giải Thoát
Phật Giáo được mệnh danh là “Đạo giải thoát”, tất nhiên giải thoát chỉ là một tính chất trong vô số tính chất có được của Phật Giáo. Tuy nhiên khi nói đến Phật Giáo người ta thường nghĩ ngay đến tính chất này. Vì bởi Phật Giáo đặt giải thoát làm trọng tâm, lấy đây làm tiêu chí đầu tiên mà người tu hành trong Phật đạo phải đạt được, và giải thoát là một trong những “chuyên ngành đào tạo” đặc trưng của Phật Giáo.

Anh Lạc Luận Tập 1 - Tác Giả Lý Tứ
Nếu thử dạo một vòng tìm hiểu những tôn giáo bạn thì không thấy có một tôn giáo nào chủ trương điều này, vì bởi các tôn giáo phần lớn mang nặng tính mặc khải, thần quyền.
Có nghĩa vị giáo chủ hoặc đấng bề trên quyết định số phận của môn đồ, thường không dành cơ hội hoặc tạo điều kiện cho môn đồ làm chủ bản thân và tự giải quyết vấn nạn của chính mình.
Riêng Đức Phật thì khác, Đức Phật không coi học trò của mình là những môn đồ bé bỏng, mà luôn tạo điều kiện thuận lợi và trao cho họ ngọn đuốc với lời khuyên: “Hãy tự mình đốt đuốc lên mà đi…”
Thời Đức Phật, giải thoát là tiêu chí đầu tiên người tu hành cần phải tự chứng nghiệm. Nếu không coi đây như con đường mình chọn, thì ít ra các vị này phải được trang bị một tri kiến tương đương.
Vì rằng, toàn bộ hành trình chinh phục đỉnh cao chân lý của Phật Giáo, giải thoát hay tri kiến tương đương chính là những trang bị tối cần thiết, không thể thiếu, nếu vị này không muốn bỏ cuộc giữa chừng.
Chính sự quan trọng của giải thoát, nên với Nhị Thừa học thuyết Ngũ Ấm ra đời, và Bồ Tát thì Tam Giải Thoát Môn có mặt.
Đến bây giờ, khi nói đến khái niệm giải thoát, rất ít người tu hành trong Phật đạo chú trọng, thậm chí khái niệm này được đánh giá như một hoài bão thấp kém của Thanh văn thừa.
Tất nhiên kết luận như vậy không sai, nhưng bảo rằng đây là kết luận hoàn hảo thì có lẽ phải coi lại. Và thực tế, cũng có một số Phật tử quan tâm hoặc lấy đây làm chủ trương tu tập, nhưng rất tiếc đa số họ lại hiểu ý nghĩa giải thoát rất mơ hồ, thậm chí không tin rằng ý nghĩa này tự thân có thể đạt được. Họ không nêu ra được cụ thể vì sao người tu hành cần phải giải thoát hoặc có một hiểu biết tương đương. Họ cũng không xác định được cái gì cần giải thoát cũng như đến đâu mới được coi là thành tựu.
Khi Phật Giáo đưa ra khái niệm giải thoát thì khái niệm này đứng ở đâu và có giá trị gì trong toàn bộ hệ thống đào tạo Phật Giáo, họ chưa một lần nghĩ đến.
Những hụt hẫng về mặt lý luận đã không làm cho người tu hành xác định được vị trí của mình, không tìm thấy phương hướng và cuối cùng mặc dù vẫn cố đi, nhưng những hoài nghi về chân lý đang tìm và sự thật có hay không về một chân lý luôn đeo bám, trì kéo bước chân của họ.
Mặc dù trong mỗi thời tụng niệm sáng chiều, tất cả đều xưng tán ngũ phần hương, những khẩu hiệu được hô lên một cách bất đắc dĩ. Hô lên vì rằng không thể tách rời tự thân ra khỏi “văn hóa đám đông”.
Họ không thật sự tin rằng ngũ phần hương có cả giải thoát hương, một phần quan trọng không thể thiếu trong bước đường tu tập trước khi đạt đến mùi hương cuối cùng trong Phật đạo, đó là giải thoát tri kiến hương, tức thành tựu Nhất thiết trí, một trong những nhân tố không thể thiếu của Phật quả vì đó là nhân lành của Nhất thiết chủng trí.
Phật Giáo có Ba thừa, nhưng cuối cùng đồng phải học Nhất thừa. Giống như ba con sông chảy ba hướng khác nhau nhưng đồng vào biển lớn. Giải thoát hay tri kiến tương đương của ba thừa là ba chiếc tàu không thể thiếu để mỗi người đi trên một dòng sông có thể nhờ con tàu này đưa mình đến biển lớn an toàn.
Nếu không có con tàu giải thoát hoặc tách rời con tàu thì mong muốn ra đến biển khơi sẽ là chuyện không tưởng, thậm chí người kia sẽ bị cuốn trôi và tấp vào một bến bờ nào đó của dòng chảy ba cõi. Sự khốc liệt và cuồng nộ của dòng chảy ba cõi không một ai từ trước đến nay có thể tự mình vượt qua.
Chính điều này Phật Giáo ra đời và trao cho những ai có ý muốn vượt qua dòng chảy này con tàu giải thoát. Một khi đã có con tàu hay ít ra công cụ tương đương thì hành trình vượt qua biển lớn không thành vấn đề. Sự cuồng nộ của dòng chảy ba cõi được ví như Khổ Đế, thì Tập Đế là nguyên nhân làm nên cơn giận dữ này.
Phật đã hóa hiện ra Diệt Đế như một dòng sông yên bình để con tàu giải thoát chuyên chở người tu hành tìm đến biển khơi Đạo Đế một cách an toàn.
Sự hóa hiện thần diệu của Đức Phật đặt người tu hành vào hóa thành giải thoát tạm gọi Niết bàn. Đây là nơi tập kết trước khi hòa cùng dòng chảy đại giác. Chính vì thế Niết bàn Ba Thừa chỉ là chân dung, sự ảnh chiếu từ mặt trăng Viên Giác. Mặt trăng thứ hai trong nước tuy rằng chưa phải là mặt trăng thật vì nó chỉ là chân dung của một cái gì đó từ chư Phật ảnh chiếu ra, nhưng xét về mặt hình thể và sự thanh lương thì cả hai không khác.
Nếu có khác thì, mặt trăng thứ nhất chiếu sáng vạn hữu, còn mặt trăng trong nước chỉ đủ để tự chiếu cho mình.
Tuy vậy khi đã thấy chân dung của vật cần tìm, đến lúc vật đó hiện hữu người ta sẽ không bỡ ngỡ và nhận ra không mấy khó khăn. Vì thế con tàu giải thoát và sự quan trọng của nó nhất định không thể thiếu đối với Ba Thừa.
Nếu bốn đế là sự uốn nắn dòng chảy ba cõi từ cuồng nộ giận dữ sang hiền hòa, thì ngũ ấm và sự thấu suốt ngũ ấm chính là con tàu đưa Nhị Thừa vượt qua sóng dữ.
Nhị Thừa mê mờ ngũ ấm như con nai khát chạy đi tìm nước. Nóng và khát đã làm con nai thấy sóng nắng thành nước. Lầm tưởng này con nai cứ mải miết chạy theo bóng nước và cuối cùng chết trong ảo vọng được nước. Ngũ ấm và những cảnh báo nguy hiểm của Đức Phật đối với Nhị Thừa là tiếng chuông làm bừng tỉnh những ai còn mê mờ ngũ ấm hãy dừng lại, để thấy được ngũ ấm bản chất của nó không thật. Giống như sóng nắng đối với con nai, chỉ cần dừng lại mới biết rằng nắng ấy tức nước, nước do lầm nắng mà thành. “Sắc tức thị không”, nắng tức thị nước, thấy được bản chất của sắc chỉ mê ‘Không’ mà hiện, thì ngũ uẩn tự nhiên chấm dứt. Một hiểu biết mới không bị trói buộc bởi mê mờ ngũ ấm để rồi ngũ ấm bỗng dưng biến thành ngũ uẩn.
Hiểu biết không trói buộc và mê mờ này Phật tạm đặt tên là Bát Nhã trí. Cho nên trong đại kinh Bát Nhã Phật tuyên thuyết: “Sắc không sanh, Bát Nhã sanh, thọ, tưởng, hành, thức không sanh, Bát Nhã sanh…” Lời kinh chính là sự đánh thức hoàn toàn cơn mê dài ngũ ấm của Nhị Thừa.
Sự ngộ nhận ngũ ấm thành ngũ uẩn trong kinh Phật có ví như con nít tưởng lầm bong bóng nước là lưu ly. Bong bóng nước dụ cho ngũ ấm, lầm thành lưu ly dụ cho ngũ uẩn. Ngũ ấm bản chất nó đã không thật thì lưu ly lại càng không thật. Để tránh lầm nhận đáng tiếc này, lời khuyên của Phật đối với Nhị Thừa là phải yểm ly triệt để. Bình yên chỉ đến với những ai biết dựa vào đại giới để yểm ly.
A Lan Nhã chính là vùng đất yên bình cần đặt chân đến để con rắn độc hóa kiếp từ sợi dây trong bóng tối không còn não hại. Con rắn ngũ ấm chỉ não hại những ai còn lảng vảng trong khu rừng ngũ dục. Nhị thừa đã đạt đến bình yên cần thiết do vâng nghe lời Phật dạy. Từ đây danh xưng Thanh văn ra đời. Vâng nghe này đã đưa Thanh văn từ địa vị phàm phu thành thánh đệ tử bởi Thanh văn do Thánh giáo mà thành. Vì thế Thanh văn được mệnh danh là thánh đệ tử của Phật, và đời sống của họ với danh xưng tốt đẹp là thánh hạnh. Ngài Xá Lợi Phất vẫn thường xưng tán: “Con từ miệng Phật sanh…” Sự tốt đẹp này đã làm nên kỳ tích đáng để ba cõi tôn trọng cúng dường.
- Trong quá trình vượt sông ba cõi, Nhị Thừa yểm ly ngũ dục (sắc, thanh, hương, vị, xúc) ra khỏi trói buộc dục giới… Còn lại sắc giới, yểm ly giác quán và hỷ lạc, sống trong nội tĩnh nhất tâm… Yểm ly giác quán còn hỷ lạc… Yểm ly hỷ còn lạc… Yểm ly lạc, vào bất khổ bất lạc, vượt ra khỏi thân cảm, gọi là ra khỏi sắc giới…
Cuối cùng còn lại ý thức, thuật ngữ gọi là vô sắc giới, vị này chia bó đũa ý thức thành bốn, tuần tự bẻ từng chiếc đũa một. Dứt tưởng, ý thoát ra khỏi trói buộc của thức tưởng vào diệt thọ tưởng định, chấm dứt quá trình tìm kiếm.
Gọi là diệt thọ tưởng định vì rằng thọ được diệt ở sắc giới, tưởng bị diệt ở vô sắc giới. Ba giới là dục giới (ngũ dục), sắc giới (thân cảm), vô sắc giới (ý thức) không còn trói buộc gọi là giải thoát, hoàn thành Cửu Thứ Đệ Định, một chuyên ngành đào tạo của hệ Tứ Thiền Phật Giáo đặc trưng dành cho Nhị Thừa đã giác ngộ.
- Đối với Bồ tát thừa thì con đường tìm kiếm giải thoát không giống như vậy. Bồ tát không chủ trương ra khỏi ba cõi, vì bởi họ không thấy khổ trong ba cõi. Họ khát khao tìm thấy chân lý từ nơi mình đang sống và không bằng lòng với hiểu biết có được từ thế pháp. Vì rằng họ nhận ra thế pháp không có chân lý, hay khác hơn không thể dựa nương vào lý luận vô thường để tìm kiếm sự an bình tuyệt đối trong tâm.
Chính đặc điểm này Phật không đề cao khẩu hiệu yểm ly đối với Bồ tát và cũng không đặt nặng vấn nạn ngũ ấm, vì vậy chân giáo ra đời. Chân giáo là hướng người nghe vào chân lý, lấy thấy biết bản chất sự việc làm mục tiêu hướng đến. Từ đây học thuyết ngũ uẩn ra đời. Có thể nói ngũ uẩn giải quyết rốt ráo sự lầm nhận bản chất sự việc, chấm dứt quá trình tích lũy nội tại những hư vọng không đáng có để phát sinh phiền não. Lý thuyết bất dị ra đời, “Sắc bất dị không…”.
Không giống như Thanh văn do mê ngũ ấm nên Phật nói: “Sắc tức thị không…”, có nghĩa quầng đèn ngũ ấm chính là hư không. “Sắc bất dị không…” là bản chất của quầng đèn chỉ do mắt bệnh mà thành, hình thể và màu sắc chính là hình thể và màu sắc của hư không, không ai làm ra (không tác giả), không ai có thể sở hữu được (không thọ giả). Vì thế những giá trị từ nơi quầng đèn (mà ông đã lầm nhận) không thật có, nó đích thị là hư không. Không hề có một quầng đèn thật sự (không giải thoát môn), không hề có hình tướng như ông đã thấy (vô tướng giải thoát môn), không hề có ai làm ra và chẳng ai có thể sở hữu, đừng mong cầu vô ích nơi nó (vô tác hay vô nguyện cầu giải thoát môn).
Ba giải thoát môn chính là đúc kết sự tồn tại không thật của cái quầng đèn. Bồ tát từ đây hết lầm. Giống như thấy bóng dáng một người đi qua trước mặt, lầm người đó là kẻ thù. Sự thù hận khiến phải chạy theo để giải quyết món nợ oan gia, khi biết rằng người kia không phải kẻ thù, mọi sân hận thù oán tiêu tan. Không còn nỗ lực chạy theo. Biết rõ không lầm, Phật Giáo gọi là thấy được thiệt tướng. Như kẻ kia hết lầm bóng dáng người trước mặt là kẻ thù, bèn dừng lại. Sự dừng lại do thấu suốt nguồn cơn hay thấy thiệt tướng sự việc không đem tâm tìm kiếm. Dừng lại này Phật Giáo gọi là định.
Định hay chánh định của Phật Giáo là kết quả của thấu suốt sự việc, thuật ngữ gọi là Giác Ngộ. Biết rõ sự thật không giong ruổi nơi thấy nghe hay biết nên tâm an định, định này mới là cốt lõi của định Phật đạo. Vì thế không giống định của ngoại đạo mà thế gian thường nhắc đến. Không phải loại định do cột trói tâm thức bằng cách đưa ra một đối tượng để tâm hướng vào đối tượng tạm quên cảnh duyên.
Phật Giáo không hề dạy người tìm kiếm cứu cánh bằng loại định này. Phật Giáo không hề chủ trương đặt bó cỏ trước mặt con lừa, buộc con lừa chạy theo để tạm quên cái đói, mà Phật Giáo giải quyết vấn đề bằng chính nhận thức rốt ráo của mỗi cá nhân gọi là giác ngộ chân lý.
Giác ngộ chân lý bằng chính chân giáo nên có được sự an bình ngay tại nơi này trên con người này, và học thuyết “Vạn pháp duy thức” ra đời. Học thuyết này giải quyết rốt ráo tính chất nhị nguyên trên mỗi con người, giải quyết rốt ráo điều này Phật Giáo gọi là chứng chân đế. Chân đế là đưa đế trở về bản chân của nó để không còn lầm nhận hai pháp.
Phật dạy: “Khi thân tâm có khuynh hướng bất động, thiền sẽ hiện. Vì bởi chủng tử thiền có sẵn trong mỗi chúng sinh…”
Lời tuyên thuyết này minh định rõ thế nào là thiền của Phật Giáo. Khi tâm an định do giác ngộ và không giong ruổi nơi cảnh duyên thì thiền sẽ xuất hiện. Như vậy có thể hiểu: Năm căn không giong ruổi nơi cảnh duyên theo mệnh lệnh của thức gọi là thiền, ý căn an định, không phán xét sự việc một cách mù quáng của nghiệp gọi là định. Hay nói cách khác: “Thân căn” không chạy theo thiện ác gọi là thiền (thiện ác của tứ chánh cần, không phải tội phước theo cách hiểu thế gian), “Ý căn” tự tịnh do giác ngộ gọi là định (tự tịnh kỳ ý). Hoặc nói theo Lục Tổ Huệ Năng: “Ngoài không loạn gọi là thiền, trong không động gọi là định…”.
Nói chung dù diễn giải theo cách nào thì, thiền định của Phật Giáo luôn đặt trên nền tảng giác ngộ, không phải sự cột trói áp đặt. Thiền định do giác ngộ mới cho ra trí tuệ vô lậu, còn thiền định do sự cột trói tâm thức thì có cho ra trí tuệ được chăng? Loại thiền định nào không bắt đầu bằng giác ngộ thì chẳng thể cho ra trí tuệ. Loại thiền định nào hình thành từ nhân cột trói thì chẳng thể cho ra quả giải thoát, vì tính nhân quả của nó. Chính vì vậy, chỉ có nhân giác ngộ vô lậu mới có quả vô lậu, còn các thứ làm nên (hữu vi) từ nhân hữu lậu sẽ cho ra quả phiền não.
Cuối cùng, dù Bồ tát giác ngộ bản chân, không chạy theo tiền cảnh vì hết lầm nhận, thân tâm vào vắng lặng bất động thì hệ quả của nó là thân tâm cũng lần lượt vượt qua các dục. Tuần tự vượt qua thân cảm (thân và cảm thọ) và rốt ráo thức tưởng không còn tồn tại nơi ý, tự nhiên ra khỏi ba cõi ngay tại chỗ ngồi. Bây giờ mới biết “Tam giới duy tâm”. Hoát nhiên hiểu ra rằng ba cõi tại đây, niết bàn cũng tại đây. Kinh gọi là: “Mộng qua sông đã tỉnh…”
Điều thú vị nhất trong khái niệm giải thoát đối với Phật Giáo là, dù mong muốn thoát ra khỏi ba cõi như Nhị thừa hay mong cầu chân lý như Bồ tát, khi hiểu ra mới thấy rằng cả hai đều được Phật ban cho con thuyền trí tuệ. Từ đây êm ả vượt qua sóng to gió lớn bằng các thứ thiền định và đồng về đến đích là biển đại giác Nhất thừa.
Ba xe chỉ là quyền phương tiện, cuối cùng chỉ cho đồng một xe trâu trắng. Nhị thừa do giác ngộ ngũ ấm vô thường, nên biết rằng vô ngã, Bồ tát giác ngộ ngũ uẩn vô ngã nên thấy được vô thường. Tứ pháp ấn (vô thường, khổ, không, vô ngã) hay tam pháp ấn (không, vô tướng, vô nguyện) cũng chỉ như câu chuyện ngụ ngôn con khỉ và ba trái chuối. Nếu không đồng ý sáng ăn một trái chiều ăn hai trái, thì ông chủ bèn đổi lại sáng ăn hai trái chiều ăn một trái. Cuối cùng, cũng chỉ có ba trái chuối mà bầy khỉ cảm thấy an tâm và no bụng. Phật là đại y vương tùy bệnh cho thuốc, kinh nói: “Tùy theo tánh tình, chí hướng, lý tưởng…của chúng sanh mà Phật chỉ bày phương tiện” để dắt dìu hết thảy đến bờ an vui.
Giải là cởi mở, thoát là ra khỏi. Không biết cởi mở cái gì, không biết cái gì trói buộc, liệu có mở được chăng? Không biết đang ở đâu thì nên thoát đi đâu?
Phật Giáo là đạo của trí tuệ. Hãy dùng trí tuệ để cởi trói những ràng buộc hư vọng thì ngay tại đây chính là Phật Quốc.
(06-2010)
−−−••• ⁕ ⁕ ⁕ ⁕ •••−−−