Tác Phẩm Lý Tứ

Ý Nghĩa Chân Thật Của Câu Tam Bảo Thường Trụ

MB 857 Lý Diệu Sinh 17.02.2023

Phật dạy: “Phật Tánh là thường” nên mới có Tam Bảo thường trụ. Mặt trời được ví như Phật Tánh. Ánh sáng Phật Trí từ Phật Tánh phát ra thường soi sáng vô minh tăm tối, ví như Pháp Bảo. Sức nóng của Trí Tuệ thường hong khô mọi thứ nước ái dục và lậu hoặc, ví như Tăng Bảo.  

Hỏi: Tôi suy nghĩ mãi, mà không thể hiểu nổi ý nghĩa của câu “Tam Bảo Thường Trụ”. Xin thầy vui lòng giải thích ý nghĩa chân thật của câu đó.

Đáp: Phật dạy: Phật Tánh là thường nên mới có Tam Bảo thường trụ.

Hỏi: Cho dù Phật Tánh là thường, thì can hệ gì đến Pháp Bảo và Tăng Bảo. Pháp Bảo là kinh điển, bản thân cuốn kinh và lời kinh là hữu vi pháp, mà cái gì hữu vi, nhất định vô thường biến hoại. Tăng cũng như thế, không ngoại lệ. Xin giải thích cặn kẽ giùm tôi thắc mắc này.

Đáp: Tôi cho một ví dụ: Giả sử như mặt trời là thường thì ánh sáng và sức nóng của nó có thường chăng?

Hỏi: Tất nhiên, nếu mặt trời là thường thì những gì thuộc về nó cũng thường.

Đáp: Mặt trời được ví như Phật Tánh. Ánh sáng Phật Trí từ Phật Tánh phát ra thường soi sáng vô minh tăm tối, ví như Pháp Bảo. Sức nóng của Trí Tuệ thường hong khô mọi thứ nước ái dục và lậu hoặc, ví như Tăng Bảo. Ba bảo này là vô vi, chứ chẳng phải hữu vi, nên người đời khó có thể biết được.

Vì thế, Phật dạy: Ai tin Tam Bảo thường trụsẽ phát sinh vô lượng công đức.

Hỏi: Tam Bảo thường trụ là vô vi. Nếu đã vô vi, làm sao có thể chứng thực được mà bảo rằng thường?

Đáp: Câu hỏi này có vấn đề, cần điều chỉnh lại. Không thể trả lời trước một câu hỏi bất hợp lý.

Hỏi: Điều nào là bất hợp lý, và nên điều chỉnh như thế nào?

Đáp:

Thứ nhất, không thể dùng một hữu vi để chứng thực cái vô vi. Bản thân ông đã là vô vi hay chưa, mà đòi tự mình chứng thực, đây là điều bất hợp lý.

Thứ hai, hỏi là để học, mà câu hỏi của ông chưa đúng thái độ của người cầu học. Vì thế, cần điều chỉnh ý nghĩa câu hỏi, người trí không nên hỏi những câu vô căn cứ như:

Tôi đang ở trong bóng tối, tại sao không thấy được ánh sáng? Xin chứng thực cho tôi, ánh sáng là gì?

Hỏi: Xin thưa! Vậy nên đặt câu hỏi như thế nào để vừa hợp với trình độ nhận thức của mình, vừa có ý nghĩa cầu học?

Đáp: Một câu hỏi thuộc nhận thức của mình, mà không tự đặt ra được. Làm sao có thể hiểu những điều sâu thẳm thuộc về vô vi trong Phật Đạo. Vậy nên, ông cố tư duy xem, nên đặt câu hỏi như thế nào để vừa “không bất hợp lý” vừa “tỏ rõ được thái độ cầu học”.

Hỏi: Trong nhất thời, tôi chưa thể nghĩ ra, xin thầy giảng giải thêm.

Đáp: Ông thấy đấy, người đời như ông, phần lớn ngã mạn nhưng lại thiếu trí, thường hay khoe khoang cái ngã của mình, nhưng chẳng tự biết đối với Phật Pháp đích thực, một chút bằng đầu sợi lông cũng chưa từng hiểu qua. Vì thế, chỉ quen đối đãi với nhau theo lề thói thế tục, riết thành bản năng tự nhiên. Không từng một lần ngồi xuống, tự xem xét lại bản thân, xem xét tâm trí này đang ở đâu nên cứ ngỡ mình là thánh nhân. Thánh nhân gì, những điều cơ bản nhất trong giao tiếp là hỏi đáp cũng không biết hỏi đáp cho đúng phép.

Nếu cứ sống với cái bề ngoài, hời hợt như vậy, khi nào mới trở thành một con người có đủ chiều sâu nội tâm tối thiểu, để đảm đang việc học tập trong Phật Đạo.

Điều này khiến tôi liên tưởng đến đám trẻ con chơi ngoài gốc cây, cả đám bầu một đứa làm thầy giáo, dạy dỗ lăng nhăng, hỏi đáp thiếu suy nghĩ lại vô căn cứ, nhưng chúng rất say mê với trò chơi này.

Sau đó, khi đám trẻ đến tuổi tới trường. Khi bắt chúng vô trường lớp đàng hoàng, học hành có quy củ, nói năng đúng trọng tâm, suy nghĩ phải chín chắn, nhất định bọn chúng sẽ trốn học tức thì.

Đâu, ông cố suy nghĩ xem, nên hỏi như thế nào cho phải phép, đừng có tự ái mà trốn học.

Hỏi: Đúng là xưa nay, bạ đâu hỏi đó, nhớ đâu trả lời đấy, thích gì làm nấy, chưa tự mình một lần xem xét câu hỏi, câu trả lời, hành động này đã thỏa đáng và hợp lý hay chưa?

Lời quở trách “như đám trẻ con” tuy nghe chói tai, nhưng thật chí tình.

Đáp: Hãy thử “một lần làm người lớn thực thụ trong Phật Đạo” xem như thế nào?

Hỏi: Xin cho hỏi, muốn hiểu được ý nghĩa Tam Bảo thường trụ là vô vi, tôi nên tu tập như thế nào?

Đáp: Câu hỏi cho thấy có chút trưởng thành. Muốn chứng thực như thế nào là vô vi, hãy bỏ hữu vi xuống.

Hỏi: Những gì được gọi là hữu vi theo ý nghĩa của Phật Đạo?

Đáp: Khi nào sáu căn xúc đối sáu trần, khởi lên các nhận thức hư vọng, những nhận thức hư vọng đó Phật Đạo gọi là hữu vi pháp.

Hỏi: Nhưng làm sao, khi căn đối trần, không khởi lên nhận thức hư vọng được?

Đáp: Nếu không thể làm được điều này, đành quay trở lại làm con nít vậy.

Hỏi: Có thể cho tôi chút thời gian, để tư duy một cách rành mạch, rõ ràng được không?

Đáp: Tất nhiên là được, mời ông dùng trà.

Hỏi: Xin cắt nghĩa cho tôi biết, thế nào gọi là nhận thức hư vọng?

Đáp: Nhận thức nào không như thật, nhận thức đó, Phật Đạo gọi là hư vọng.

Hỏi: Xin hỏi, thế nào gọi là nhận thức không như thật?

Đáp: Ví dụ như: Một người nghèo, nằm mơ thấy mình giàu và được hưởng thụ những tiện nghi đắt đỏ.

  • Trong mơ lòng cảm nhận mình giàu có là “hư vọng tánh, hư vọng tâm”.

  • Nhận thức về việc giàu sang trong mơ, là “nhận thức hư vọng”.

  • Trong mơ mọi sự chung quanh đều như ý, là “hư vọng kiến”.

  • Nhìn thấy mọi vật tốt đẹp như sự giàu sang kia, là “hư vọng cảnh”.

  • Nói chung, thấy biết nào không bắt nguồn từ bản chất của sự vật, sự việc, Phật Đạo gọi là hư vọng.

Hỏi: Nhưng hiện tại, tôi đâu có mơ?

Đáp: Ông không thấy mình đang mơ, nhưng Phật và hiền thánh Tăng thấy ông đang mơ. Người ngủ mơ, đâu biết mình mơ, nếu biết thì đã không mơ rồi.

Hỏi: Xin ngài cho biết, tôi đang mơ điều gì?

Đáp: Ông đang mơ về chính ông. Ông đang mơ thế giới chung quanh theo nghiệp riêng của mình.

Hỏi: Mơ về chính tôi và mơ theo nghiệp riêng của mình như thế nào?

Đáp: Muốn biết những điều này: Ông hãy trả cái phán xét về thế giới là tốt hay xấu trong lòng của ông về đúng với bản chất vô tri của thế giới. Ông hãy trả cái nhận thức đúng sai trước một sự việc về với bản chất của sự việc là tự nó chẳng phải đúng, chẳng phải sai. Ông hãy trả chính ông về với bản nguyên của ông chưa từng sanh diệt.

Ông thử thực hiện thật tốt ba điều trên xem như thế nào, liệu có điều gì thay đổi hay không?

Hỏi: Mô Phật! Mô Phật! Tôi chẳng thấy có gì.

Đáp: Lúc ông chẳng thấy có gì, cái thấy đó có thuộc nhận thức hư vọng hay không?

Hỏi: Không thuộc nhận thức hư vọng, mà nó là cảm nhận chân thật của cái biết (tánh giác).

Đáp: Cảm nhận chân thật này là thường hay vô thường?

Hỏi: Là thường, chỉ khi mê nó bị che khuất.

Đáp: Người nào bắt ông mê muội?

Hỏi: Nếu không còn ai, thì chẳng có kẻ mê chẳng có người giác.

Đáp: Không mê không giác, gọi là gì?

Hỏi: Không mê không giác đích thực là vô vi.

Đáp: Vô vi đích thực là gì?

Hỏi: Chẳng rơi vào thấy đoạn hay thấy thường.

Đáp: Chẳng rơi vào đoạn kiến hay thường kiến, đó là gì?

Hỏi: Chánh Kiến.

Đáp: Dựa vào cái gì để biết đó là Chánh Kiến?

Hỏi: Tự biết, không do cái gì nên có Chánh Kiến, mà “Chánh Kiến cũng chẳng phải là pháp tạo tác”.

Đáp: Cái gì làm cho ông chấm dứt tạo tác sanh diệt?

Hỏi: Thấu suốt nguồn tâm, sẽ chấm dứt tạo tác sanh diệt.

Đáp: Cái gì giúp ông thấu suốt nguồn tâm?

Hỏi: Pháp của Phật do Ngài thiện xảo truyền đạt, giúp tôi thấu suốt nguồn tâm.

Đáp: Pháp đó là hữu vi hay vô vi?

Hỏi: Ra khỏi nhận thức của hữu vô!...

Đáp: Ra khỏi nhận thức hữu vô; “chân thật” nó là cái gì?

Hỏi: Ra khỏi nhận thức hữu vô, nên pháp này rốt ráo vô.

Đáp: Pháp rốt ráo vô, gọi là gì?

Hỏi: Rốt ráo vô, mới chân thật là Pháp Bảo.

Đáp: Pháp Bảo này là “thường” hay “vô thường”.

Hỏi: Pháp Bảo này là thường.

Đáp: Một thường, tất cả có thường chăng?

Hỏi: Như đèn soi bóng tối, một sáng tất cả sáng, một thường tất cả thường.

Đáp: Như vậy, Tam Bảo là vô vi hay hữu vi?

Hỏi: Tam Bảo đích thực là vô vi.

Đáp: Vô vi là “thường” hay “vô thường”?

Hỏi: Vô vi là thường! Vì thường nên thấy “một bảo” lập tức biết có “ba bảo”.

Đáp: Như vậy, ông còn thắc mắc gì về nghĩa Tam Bảo thường trụ, và có còn đòi chứng thực Tam Bảo vô vi nữa hay không?

Hỏi: Con biết vô vi chẳng thể đem cái hữu vi chứng thực, chỉ có mình “Tự Ngộ”?

Đáp: Ngộ như thế rồi, thì cần làm gì?

Hỏi: Nay con xin quy y Tam Bảo thường trụ.

Đáp: Đã quy y Tam Bảo thường trụ, nên phát ba thứ tự quy y chân thật:

  • Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát Vô Thượng tâm.

  • Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, Trí Tuệ như biển.

  • Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại.

Hỏi: Đã phát tam tự quy rồi, nay con nên làm gì tiếp theo?

Đáp: Lấy Chánh Kiến, rọi đến nơi nào, tâm thức này hãy còn tối tăm.

Tạm biệt! …