Tác Phẩm Lý Tứ

Lý Do Phải Học Rộng Sâu Kiến Thức Phật Pháp Sau Khi Giác Ngộ

MB 857 Lý Diệu Sinh 17.02.2023

Người Giác Ngộ, có học rộng, hiểu nhiều, mới biết được vị trí ta đang đứng là nơi nào, trong hành trình dài tiến về Vô Thượng. Nếu không biết điều này, sẽ không thể có những bước chuẩn bị tốt nhất để đi tiếp con đường phía trước.

Hỏi: Người tu hành đã được Đạo Sư khai thị cho Giác Ngộ. Người này sau khi Giác Ngộ, chỉ cần gìn giữ chỗ Giác Ngộ đó, có cần đọc tụng thêm kinh điển, sách vở, tìm cầu mở rộng kiến thức Phật Giáo nữa hay không?

Đáp: Rất cần làm điều đó. Cần hơn cả lúc chưa Giác Ngộ.

Hỏi: Vì sao đã Giác Ngộ rồi mà còn cần học rộng kiến thức Phật Pháp?

Đáp: Vì rằng,

- Thứ nhất: Người chưa Giác Ngộ, đọc tụng kinh điển giống như người khát nước, đi giữa đất trời mênh mông tự mình dò tìm nguồn nước…

Người đã Giác Ngộ, giống như kẻ khát nước, nay có người chỉ tường tận địa điểm nguồn nước. Tuy người này biết rõ nơi có nguồn nước, thậm chí nguồn nước ở ngay vị trí đang đứng, nhưng người đó vẫn chưa thể hoàn toàn sử dụng nguồn nước này như ý…

Lý do, nước trên đất thì rất ít, chỉ đủ để giải khát trong nhất thời, mạch nước chính còn nằm sâu dưới lòng đất. Muốn sử dụng thứ nước này, phải bỏ công sức tìm học cách đào bới, chính mình cùng với Đạo Sư cùng làm công việc này.

  • Kiến thức Phật Giáo, chính là phương pháp khai thác mạch nước.

  • Nỗ lực tư duy chính là bỏ công ra đào bới.

  • Sử dụng và giữ gìn chỗ đã Giác Ngộ, chính là sử dụng và bảo quản công cụ lao động.

  • Cùng Đạo Sư hợp tác làm việc, chính là vận dụng tối đa công cụ, kỹ thuật.

Thiếu một trong bốn điều này, tuy rằng đã biết nơi có mạch nước, nhưng vẫn có thể bị “chết khát”.

Lịch sử Thiền Môn trong quá khứ đã có không ít trường hợp như vậy xảy ra. Đã có người được kẻ trí chỉ cho nguồn nước, nhưng vẫn chết khát. Vì thế, kiến thức trong giai đoạn này rất cần thiết, nó vừa là Pháp Hộ Trì, vừa là Pháp Tăng Ích.

- Thứ hai: Người Giác Ngộ, có học rộng, hiểu nhiều, mới biết được vị trí ta đang đứng là nơi nào, trong hành trình dài tiến về Vô Thượng. Nếu không biết điều này, sẽ không thể có những bước chuẩn bị tốt nhất để đi tiếp con đường phía trước.

- Thứ ba: Kiến thức hạn hẹp, sẽ rất khó cho việc làm công hạnh sau này. Chưa nói đến những kỹ thuật cao cấp trong Phật Đạo, như:

  • Kỹ thuật khai thị;

  • Kỹ thuật đoạt tâm;

  • Kỹ thuật nhận dạng;

  • Kỹ thuật sử dụng ngôn âm;

  • Kỹ thuật truyền đạt;

  • Kỹ thuật đánh giá nhanh;

  • Kỹ thuật thanh minh;

  • Kỹ thuật biết lắng nghe tâm người;

  • Kỹ thuật tương tác chủ khách;

  • Kỹ thuật tạo đương cơ;

  • Kỹ năng biến hóa;

  • Kỹ năng nương Phật thần lực;

  • Kỹ năng hướng đạo;

  • Kỹ năng nắm bắt thời cơ…

Người thiếu kiến thức, không thể thực hiện được các thứ kỹ thuật, kỹ năng này. Nói chung, có rất nhiều điều cần đến kiến thức Phật Pháp, khó nói hết.

Hỏi: Thế nào là “Pháp Hộ Trì”, thế nào là “Pháp Tăng Ích”?

Đáp:

  • Pháp Hộ Trì: Giống như người đào giếng, miệng giếng càng rộng càng dễ đào, không sợ bị lấp trở lại sau khi đào sâu thêm.

  • Pháp Tăng Ích: Giống như mở rộng miệng giếng để dễ đào sâu, đào càng sâu nước càng tinh khiết.

Ngoài ra, người mới Giác Ngộ hoặc đã Giác Ngộ mà kiến thức quá ít, không thể dùng cảnh giới Giác Ngộ để đối phó với mọi tình huống bất như ý xảy ra trong đời...

Chính kiến thức sẽ giúp người này vận dụng, làm công cụ ứng phó trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Ứng phó trong những hoàn cảnh khác nhau gọi là Pháp Gia Trì. Kiến thức tốt giúp người này ứng phó mau lẹ chính xác, ứng phó mau lẹ chính xác gọi là Pháp Tăng Ích.

Hỏi: Người đã Giác Ngộ, khi đọc kinh điển, nghe Đạo Sư giảng thuyết, sẽ lấy gì làm Chánh Tư Duy?

Đáp: Lấy nguồn tâm đã giác làm Chánh Tư Duy.

Chính vì điều này, mỗi cảnh giới Giác Ngộ khi đọc kinh sẽ thấy một ý nghĩa tương ưng, và mỗi lời kinh có “vô lượng nghĩa”, trong đó có một số nghĩa tương ưng với những cảnh giới đã Giác Ngộ. Điều này, Phật Đạo gọi là “Pháp Tương Ưng”.

Giống như người đào giếng, tùy theo mỗi tầng địa chất, người này sẽ dùng công cụ thích hợp để đào... Đất nhão không thể dùng xà beng, đất cứng không thể dùng gàu múc…

Sau các lần Giác Ngộ, lấy cảnh giới Giác Ngộ mới nhất làm Chánh Tư Duy, giống như người đào giếng xuyên thủng các địa tầng  bằng  những công cụ hợp lý… Vì thế, lấy chỗ đã Giác Ngộ làm Chánh Tư Duy, chính là sử dụng công cụ lao động hiệu quả nhất.

Hỏi: Sau khi Giác Ngộ, người này đọc tụng kinh điển tùy thích, hay có sự chỉ định của Bậc Đạo Sư?

Đáp: Tùy vào mức độ Giác Ngộ, vị Đạo Sư sẽ có ý kiến thích hợp.

Hỏi: Tôi đã chứng kiến một số lần khai thị, nhận thấy trong những đương cơ đó, người nói lẫn người nghe khi đối thoại, văn tự không rõ ràng, thậm chí nhiều câu đối đáp người ngoài nghe không hiểu trọn vẹn. Xin hỏi, có thể giúp tôi một phần nào đó giải tỏa thắc mắc này hay không?

Đáp: Khai thị là kỹ thuật đặc biệt, có thể nói là cao cấp của Phật Đạo… Trong thời điểm này, chỉ có hai người trong đương cơ là hiểu nhau. Vì thế thường có những câu mào đầu như: Bỏ kiến thức xuống, đừng dài dòng, văn tự không cần trau chuốt, trực tâm, thấy gì nói đó, không quanh co như người đời…

Vì sao, cần dùng những câu mào đầu như vậy? Vì rằng: ngữ ngôn trong thời điểm này không khác nước lã, không nhiều ý vị, ngữ ngôn chỉ là “dẫn dược”. Có nghĩa, ngữ ngôn chỉ là thứ nước giúp đưa thuốc vào cơ thể bệnh nhân, cái chủ yếu vẫn là “thứ thuốc ẩn mật” mà vị Đạo Sư âm thầm để trong nguồn nước đó…

Vì thế, người ngoài với tâm cảnh không tương ưng, khi nghe những câu đối đáp giữa hai người, giống như người uống nước lã, không cảm nhận được ý vị nhiều lắm… Càng phân tích văn tự hay ngữ ngôn trong trường hợp này theo cách hành văn ở đời, nhất định càng rời xa ý nghĩa, giống người “ăn phải mầm đá”, không mang lại nhiều lợi ích…

Chỉ có người trong cuộc, hoặc các vị Giác Ngộ tương ưng, mới có thể cảm nhận hết ý vị của các câu đối đáp đó... Xin đưa ra một ví dụ để có thể hiểu một chút gì đó của ngữ ngôn trong kỹ thuật khai thị. Ví dụ chỉ mang tính chất tượng trưng, không nói lên tất cả.

Ví dụ như sau: Người mẹ hỏi đứa con: “Con có thấy mấy con gà nhà mình ở bụi cây phía trước hay không?” Đứa con đáp: “Con chỉ thấy mấy con bò…”.

Mẹ hỏi gà, con đáp bò, nhưng cả hai mẹ con đều hiểu ý là gì Vì thế, khi tâm cảnh chưa tương ưng, phân tích văn tự trong trường hợp này, giống như đi phân tích chuyện ngài Mục Kiền Liên dùng thần thông gì để bay qua các cõi Phật.

Hỏi: Trong hoàn cảnh nào, kỹ thuật khai thị mới được sử dụng?

Đáp:

  • Thứ nhất: Tâm thức người nghe chín muồi…

  • Thứ hai: Biết rõ tâm cảnh của người…

  • Thứ ba: Trong một đương cơ tốt nhất...

  • Thứ tư: Thành thục kỹ thuật khai thị…

Hỏi: Hiệu quả của kỹ thuật khai thị là gì?

Đáp: Hiệu quả của kĩ thuật này phải tùy mức độ. Thấp nhất, người nghe tạm dừng phàm tâm; cao hơn dứt kiết sử; trên nữa thấy bổn tâm; xa một chút kiến tánh; tột cao, mọc mầm trí tuệ…

Nói chung, tùy căn cơ, tùy công đức… Và cuối cùng, trên con đường tiến về Vô Thượng Bồ Đề, khai thị là môn học bắt buộc, Bồ Tát phải học cho thuần thục...

Hỏi: Có khi nào, người tu hành bắt chước kỹ thuật này hay không?

Đáp: Trên đời, món đồ gì có giá trị mà không bị làm giả… Hiệu quả từ người tiêu dùng, sẽ nói lên tất cả…

Hỏi: Trong đương cơ, người được khai thị có lợi ích... Nếu lúc đó có đại chúng tham dự, thì đại chúng được lợi hay không?

Đáp: Đại chúng cũng được lợi, cũng không được lợi.

Hỏi: Xin nói rõ, chúng nào không lợi, chúng nào có lợi?

Đáp:

  • Có những người tu hành, tâm cảnh chưa tương ưng sẽ hoàn toàn không có chút thú vị và lợi ích gì khi nghe những bài pháp như vậy… Biểu hiện của hạng này là vừa nghe, vừa ngáp, vừa ngủ, sau cùng… là… chê…

  • Hạng người đi phân tích các mẩu khai thị, rồi đem so sánh với văn chương ở đời… Hạng này chuyên làm chuyện ngược đời, như kẻ cầu “ăn muối để khỏi khát nước”... Biểu hiện của hạng này là thích chia chẻ văn tự, không rành tâm truyền...

  • Hạng tu hành, lặng lẽ quan sát từng cử chỉ, từng câu nói và hình dung ra được dụng ý trong lúc nghe khai thị… Hạng này, có cơ may, học được phần nhỏ… Hạng này biểu hiện đăm chiêu, nhất tâm trong thời điểm nghe pháp, có cảm giác mình là người trong cuộc…

  • Hạng người, nghe đến đâu mắt sáng đến đó, tâm ý sảng khoái theo từng mạch đối thoại… Hạng này, học được nửa phần. Biểu hiện của hạng này cứ nghe xong một câu là muốn vỗ đùi đánh đét một cái cho sảng khoái, nhưng vì trước đông người, nên phải giữ lễ... Nghe xong, mười lăm tới ba mươi ngày sau còn phấn khởi, sáng chiều bụng không thấy đói...

  • Hạng người nghe xong lạy dài… có thể học được sáu bảy phần... Biểu hiện của hạng này là dáng vẻ thâm trầm, nội tâm có chiều sâu, học tập không mỏi mệt…

Ông xét mình thuộc hạng nào?